Mô hình thí điểm xử lý nước thải làng đá mỹ nghệ Non Nước
Ngũ Hành Sơn là điểm tham quan du lịch rất nổi tiếng của Đà Nẵng được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến, đây là một địa điểm có tiềm năng du lịch lớn không chỉ với thành phố Đà Nẵng mà còn với cả miền Trung. Thêm nữa, Làng đá mỹ nghệ Non Nước trong cùng khu vực còn được xem là một điểm nhấn quan trọng trong quần thể du lịch thắng cảnh Ngũ Hành Sơn, tạo nên một cảnh quan du lịch hài hòa, hấp dẫn du khách. Nghề đá mỹ nghệ Non Nước đã có từ bao đời nay không chỉ thể hiện được sự tài ba từ bàn tay, khối óc con người Việt
Tuy nhiên, từ quy trình sản xuất, điêu khắc các loại sản phẩm nơi đây đã tạo ra nhiều mối nguy hại đến sức khỏe cộng đồng và môi trường trong khu vực như phát sinh tiếng ồn, bụi, ô nhiễm từ nước thải ảnh hưởng đến nguồn nước ngầm,...Theo ý kiến của cơ quan quản lý môi trường thành phố (Sở Tài Nguyên và Môi trường), tình hình ô nhiễm môi trường tại khu vực Làng nghề hiện nay được xem là một trong những điểm nóng mà các cấp quản lý từ phường, quận đến thành phố đang quan tâm giải quyết, đặc biệt là tình trạng ô nhiễm nước ngầm do sử dụng acid HCL đậm đặc (hay pha loãng, nóng) trong qúa trình mài, làm bóng sản phẩm. Trước tình hình đó, trong Chương trình ứng dụng tiến bộ KH&CN phục vụ phát triển KT_XH của thành phố, Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN thuộc Sở KH&CN đã tiến hành khảo sát, lựa chọn cơ sở sản xuất đá mỹ nghệ Lê Nhân (qui mô vừa) thuộc làng đá mỹ nghệ Non nước làm thí điểm, từ đó nhân rộng mô hình cho các hộ sản xuất khác.
Quy trình công nghệ sản xuất các loại tượng đá không sử dụng màu
Từ quy trình sản xuất cho thấy, ngoài bụi và tiếng ồn phát sinh, lượng nước thải ra khá lớn từ các khâu như cưa, mài, cắt, đánh bóng, chứa chủ yếu cặn bột đá và lượng axit dư từ việc đánh bóng bề mặt sản phẩm. Hiện tại, phần lớn lượng nước thải này các hộ sản xuất đều cho tự chảy tràn lan trên mặt đất hoặc có hộ thu gom về hố thu nhưng cũng không qua bất kỳ biện pháp xử lý nào. Thêm vào đó, tại khu vực Làng nghề hệ thống thoát nước hiện quá cũ kỹ, không đáp ứng được tải lượng nước thải sản xuất của các hộ sản xuất, có đoạn nước thải không thoát được mà chảy tràn trên nền đất gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng xấu đến mỹ quan khu du lịch Non nước.
Để đánh giá tác động của hoạt động sản xuất đá mỹ nghệ đến môi trường cũng như đối với cộng đồng dân cư sống trong khu vực, Trung tâm Ứng dụng Tiến bộ KH&CN Đà Nẵng đã tiến hành điều tra và lập báo cáo đánh giá tác động môi trường từ hoạt động của Làng nghề, đề xuất các biện pháp giảm thiểu. Trung tâm đã lắp đặt và hiện đang vận hành thử nghiệm hệ thống xử lý nước thải sản xuất tại một hộ sản xuất có quy mô vừa tại Làng đá mỹ nghệ Non Nước.
Quy trình xử lý:
Các nguồn phát sinh nước thải tại khu vực sản xuất được thu gom bằng hệ thống mương thu nước và được dẫn qua hố lắng cát để tách một phần cặn có kích thước lớn (cát, đá vụn). Sau đó, nước thải tiếp tục được tách cặn bùn, bột đá do trong quá trình sản xuất sinh ra tại bể lắng cặn. Bột đá có tính kiềm nên một phần sẽ tự trung hoà với nước thải rửa có tính axit, mặt khác nước thải còn được tiếp tục trung hòa tại bể trung hòa (bằng đá hồng, đá trắng). Tiếp theo, nước thải được chảy qua bể lọc có các lớp lọc bằng đá, sỏi và cát nhằm lọc triệt để lượng cặn còn lại trong nước thải, sau đó chảy vào bể chứa nước. Nước thải sau khi lọc được bơm tuần hoàn để tái sử dụng cho quá trình sản xuất. Nồng độ các chất ô nhiễm trước và sau khi xử lý như sau:
Chất ô nhiễm | Đơn vị | Trước xử lý | Sau xử lý | TCVN5945-1995 (cột A) |
pH | - | 4.5 - 7.5 | 7.3 - 7.6 | 6 - 9 |
TSS | mg/l | 1052 | 1.0 | 50 |
COD | mg/l | 40 | 24 | 50 |
Với mô hình xử lý nước thải này, nếu được nhân rộng ra trên quy mô toàn bộ các hộ sản xuất trong khu Làng nghề, chúng tôi cho rằng sẽ thu được hiệu quả đáng kể như giảm được phần lớn lượng các chất ô nhiễm thải ra môi trường, đặc biệt đối với nguồn nước ngầm trong khu vực, từ đó góp phần bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Và một lợi điểm nữa là tuần hoàn tái sử dụng nước trong quy trình sản xuất sẽ giảm được chi phí điện do bơm nước giếng ngầm, làm tăng lợi nhuận cho các hộ sản xuất.
Chi phí xây dựng hệ thống xử lý khoảng 8 đến 15 triệu đồng/hộ tuỳ theo qui mô, với qui trình vận hành đơn giản và phù hợp với hộ sản xuất cá thể.