00:00 Số lượt truy cập: 2669349

Chứng cao huyết áp 

Được đăng : 03/11/2016

Về mặt bệnh lý, Tây y phân biệt chứng “Cao huyết áp nguyên phát” do tim và chứng “Cao huyết áp thứ phát” do thận. Cao huyết áp là tình trạng tăng áp lực động mạch tâm thu hoặc tăng áp lực động mạch tâm trương. Ở người bình thường số đo huyết áp dao động trong khoảng 140/90, khi bị tăng huyết, số đo có thể vọt lên từ 141/91 đến 160/95, thậm chí trong tăng huyết áp kịch phát, có thể lên đến 300/170.


Cao huyết áp nguyên phát chiếm 90-95% các trường hợp cao huyết áp, phần lớn bệnh nhân do di chứng xơ vữa động mạch gây ra, số ít do yếu tố gia đình hoặc chủng tộc. Tỷ lệ người mắc chứng cao huyết áp khoảng 15-20% dân số, hơn 30% người ở lứa tuổi 40-50 trở lên, thường gặp ở nam giới, lớn tuổi, quen ăn mặn, hút nhiều thuốc lá, béo phì, bệnh nhân bệnh cường giáp, nhược giáp, đái tháo đường, tăng lipid – huyết, tim to, giãn nở tâm thất trái, suy tâm thất trái, dùng thuốc ngừa thai kéo dài, mắc bệnh cushing, bệnh aldosterol nguyên phát…

Triệu chứng thường gặp là đau ở vùng gáy, ù tai, chóng mặt, tức ngực, bụng to, da ngực có vết rạn, mặt đỏ, hiện tượng thấy “ruồi bay”, nhìn một vật thành hai, chảy máu cam, đi tiểu đêm nhiều, tê chân tay, chảy máu dưới kết mạc mắt, suy thận, dày tâm thất trái, đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, thiếu máu chi dưới gây đi lại khập khiễng cách hồi, mất trí nhớ, xuất huyết não, nghẽn mạch máu, liệt nửa người… Nếu tăng huyết áp kịch phát gây đau đầu, ngủ gà hoặc bồn chồn vật vã, rối loạn thị giác, thần kinh thoáng qua, dễ xảy ra tai biến mạch não, suy tim cấp, phù phổi, buồn nôn, nôn, đau vùng thượng vị…

Cao huyết áp thứ phát do thận chiếm 5-10% các trường hợp cao huyết áp, thường gặp ở người từ 16 đến 30 tuổi vốn có những rối loạn về thận – tiết niệu. Nguyên nhân gây ra chứng đau huyết áp này là các bệnh ở nhu mô thận như viêm cầu thận cấp và mãn, viêm thận – bể thận, thận đa nang, chấn thương thận, xuất huyết dưới bao thận,…; các bệnh mạch máu thận như xơ vữa động mạch, quá sản các sợi cơ, phình mạch, nghẽn mạch và nhồi máu, viêm động mạch thận; các khối u sản sinh ra renin, u vỏ hay u tủy thượng thận, một số bệnh nội tiết khác; các thuốc tránh thai loại uống dùng kéo dài, uống nhiều nước sắc cam thảo, tăng áp lực nội so với chấn thương, xuất huyết não, tăng canxi trong máu, hẹp eo động mạch chủ… Chứng này cũng có những triệu chứng tương tự như cao huyết áp nguyên phát, thường diễn ra cấp tính, ồ ạt thành những cơn kịch phát…

Cao huyết áp là một nguyên nhân quan trọng rút ngắn tuổi thọ con người. Các công trình nghiên cứu cho biết người bệnh cao huyết áp có mức huyết áp 150-200/90-100 trong vòng 5 năm tử vong 15-20% trong số bệnh nhân, mức huyết áp 200-250/110-130 tử vong 30-40% số bệnh nhân, huyết áp trên 250/130 tử vong 60-70% số bệnh nhân. Những bệnh nhân có tổn thương đáy mắt do cao huyết áp thì tỷ lệ tử vong càng cao. Chứng cao huyết áp nói chung tiến triển rất thầm lặng, phá hủy dần các cơ quan dẫn đến cái chết chắc chắn. Vì vậy, đã mắc cao huyết áp thì phải chữa trị hàng ngày và liên tục suốt đời, ngăn chặn hậu quả tàn phá của bệnh, bỏ thói quen khi có đau mới dùng thuốc, làm bệnh nặng thêm./.