00:00 Số lượt truy cập: 2670075

Kỹ thuật trồng bưởi 

Được đăng : 03/11/2016
Ở Việt Nam, bưởi được trồng ở nhiều nơi. Riêng ở vùng Đông Nam Bộ, bưởi nổi tiếng có phẩm chất ngon như vùng bưởi Tân Triều, Cù Lao Phố…



Bưởi có nhiều công dụng. Múi bưởi có tính khai vị và bổ, lọc máu. Vỏ bưởi (phần trắng ( rất giàu sinh tố P (nitin) rất cần để bảo vệ thành mạch. Là bưởi dùng để nấu nước xông trị cảm, cúm. Lá non trị sưng khớp, bong gân do té, đầy hơi do lạnh. Hột chứa nhiều pectin, chất này khi ngâm vào nước sẽ hòa thành keo trong, nhờn, uống ngừa sỏi thận.

Yêu cầu ngoại cảnh

Cây bưởi thích hợp khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm. Nhiệt độ bình quân từ 25 – 32oC rất thích hợp. Ẩm độ trung bình. Ở vùng đất cao không có điều kiện tưới không nên trồng bưởi vì năng suất kém.

Yêu cầu đất đai

Thích hợp nhất là đất phù sa ven sông như Tân Triều (Vĩnh Cữu), Cù Lao Phố (Hiệp Hòa). Tuy nhiên, cần chú ý nhất là đất ít phèn, thoát thủy tốt, tạo điều kiện cho rễ phát triển theo chiều sâu.

Giống

Hiện nay bưởi cũng chưa có dòng vô tính được tổ chức khoa học duyệt, chưa có lý lịch, đặc điểm rõ ràng, chỉ gọi theo dạng trái, địa danh trồng nên dễ lầm lẫn.

Các loại bưởi tương đối phổ biến ở Đồng Nai

- Bưởi đường núm: Trái to, vỏ dày thường có núm cao, trung bình 1,5 – 2,0 kg/ trái, vị ngọt nhiều nước.

- Bưởi đường lá cam: Phân biệt với đường núm ở dạng lá, nhỏ như lá cam. Trái có dạng quả lê thấp, vỏ mỏng. Trọng lượng trung bình 1,2 – 1,6 kg/ trái. Vị ngọt, nhiều nước, trong hội thi cây có múi 96 đạt giải B.

- Bưởi thanh: Dạng trung bình, trái bầu tròn không có núm cao, vị chua ngọt, nhiều nước.

- Bưởi ổi: Trái dưới 1,2 kg, vỏ mỏng, múi ngọt vừa, ráo, ít nước. Ưu điểm để dành lâu càng ngon (1 – 2 tháng khi vỏ đã khô ngâm nước ăn vẫn tốt).

Ngoài ra còn có Bưởi Xiêm Vang, Bưởi Cả tư, Bưởi da cóc nhưng diện tích trồng rất ít.

Kỹ thuật nhân giống

Bưởi là cây đơn phôi nên không thể nhân bằng hạt vì có tỷ lệ cây hữu tính rất thấp, biến dị lớn.

Phổ biến hiện nay là phương pháp chiếc cành, nhưng lại có nhược điểm là hệ số nhân thấp, rễ ăn cạn nên dễ đổ ngã và không hút được nước ở tầng đất sâu, ở vùng mực thủy cấp thấp phải tưới bổ sung vào mùa nắng.

Kỹ thuật trồng

1– Đào hố:

Hố trồng dài 80 x 80 x 80 x 80 cm, ở vùng đất có tầng canh tác mõng, đào sâu 100 cm. Bỏ rơm, rạ, trấu un, sau đó bón phân hữu cơ cho đến khi còn cách mặt đất 30 cm. Đối với đất chua, bón 2 kg vôi/hố. Hố phải chuẩn bị trước khi trồng ít nhất 30 ngày. Khoảng cách trồng 6 – 7 m, 5 x 5 m (bưởi ổi). Đất kém thoát nước phải đào mương giữa 2 hàng rộng 30 cm, sâu 50 cm.

2- Ương cây giống:

Sau khi chiết 2 – 3 tháng, cây chiết sẽ ra rễ, chỉ cắt rời cây mẹ khi rễ ở bầu chiết chuyển sang màu nâu vàng, cắt quá sớm, cây sẽ khó sống. Sau đó cho vào vỏ tre đường kính 30 – 40 cm, trong chứa tro, phân hoai, đất mùn, tỉ lệ 1 –1 – 2. Ương cây giống vào, đặt trong bóng râm và tưới 2 lần sáng chiều. Sau 1 tuần tưới ngày 1 lần và tập cây quen dần với ánh sáng đến 20 ngày cho ánh sáng trực tiếp và 30 ngày đem ra trồng. Trong vườn ương tưới DAP 20 gr/ bình 8 lít hằng tuần.

3- Cách trồng:

Có nhiều cách tùy điều kiện đất đai, tưới tiêu. Ở vườn thoát nước tốt, đặt thẳng đứng ngang bằng mặt đất, chú ý che chắn gió tốt.

Đặt nghiêng 45o cạn ngang bằng mặt đất ở vườn thoát nước kém.

Dù cách đặt nào cũng phải có cọc chịu cột chặt vào cây giống để tránh lung lay làm chết cây con.

4- Phân bón:

Phân bòn hữu cơ rất quan trọng, ngoài bón lót, nên bón hàng năm 10 – 15 tấn/ha

* Cách bón phân:

Thời gian:

* Đối với cây tuổi 1 – 2 – 3:

Lần 1: Tháng 4 – 5 dl.

Lần 2: Tháng 9 – 10 dl.

Lần 3: Tháng 12 – 1 dl.

* Cây từ 4 tuổi trở lên (đã có thu hoahc5):

Lần 1: Tháng 4 – 5 dl (bón đón phân)

Lần 2: Tháng 7 – 8 dl (bón thúc trái)

Lần 3: Tháng 12 – 1 dl (nuôi cây sau thu hoạch).

Cách bón: Cuốc sâu 10 – 15 cm theo tán cây và bón đều các bên giáp tán. Sau đó lấp đất lại để phân không bị bốc hơi (nhất là urê).

Ngoài ra cần bón vôi hàng năm 1 lần đầu mưa. Rãi đều trên đất sau khi cuốc xới cạn 2 – 3 cm với lượng phân 300 – 500 kg/ ha.

5- Tưới nước

Đầu và cuối mưa kết hợp bón phân sẽ làm bồn để dễ tưới nuớc (nếu không có điều kiện tưới phun mưa). Bồn làm tròn theo tán cây. Kết hợp làm cỏ sạch gốc. Mùa khô tủ rơm rạ để giữ ẩm. Không để quá khô và không nên tưới ẩm quá. Nếu có hạn đầu vụ sau cơn mưa đấu mùa cây ra lộc và hoa, phải tưới nước, nếu không sẽ bị rụng hoa và rụng trái non.

Sâu bệnh

A – Sâu

1- Sâu vẽ bùa (Phyllocnictis citrella ):

Rất phổ biến trên cây trồng có múi, tuy không gây hại nặng nhưng ảnh hưởng đến bộ lá và là cửa ngỏ để bệnh loét xâm nhập. Sâu đẻ trứng vào ngọn, lá non cắn phá lớp biểu bì (thường là mặt trên) thành những đường ngoằn ngoèo dễ nhận diện. Sâu thường phá hoại ở giai đoạn ra lá non. Chú ý phun xịt từ giai đoạn lá non sẽ có hiệu quả.

2- Sâu xanh sừng

Bướm mẹ là con Papiplo rất đẹp, đẻ trứng trên búp non. Sâu màu xnh, viền trắng ngà, có 2 sừng màu đỏ vươn ra khi có động, rất hôi. Sâu cắn phá lá, chồi non.

3- Rầy chổng cánh (Diaphorina citri):

Con trưởng thành khi đậu cánh chổng ngược, gây hại bằng cách chích hút chồi non và là môi giới truyền bệnh Greening.

4- Rầy mềm (Aphid):

Tập trung ở đọt non hút nhựa lá, chồi non và hoa. Rầy mềm là môi giới truyền bệnh Tristeza.

B – Bệnh:

1- Bệnh thối gốc chảy nhựa: do nấm Phytophtora spp. gây ra.

Thuờng bệnh chỉ phá hại gốc. Cổ rễ, gốc và chân cành lớn, chỗ gần mặt đất là nơi bị hại trước. Biểu hiện của bệnh là vỏ và tầng sinh gỗ phía dưới thối, chảy nhiều nhựa. Sau đó vỏ nứt dọc, dưới vỏ lộ ra những mảnh gỗ màu nâu. Vỏ bị phá hại hoàn toàn theo đường vòng tròn, cành khô đi, bộ lá vàng nhanh, hoa trái vụ ra nhiều. Trái đậu được không có giá trị, vì bị khô hoặc chín ép.

Điều kiện để bệnh phát triển là cổ rễ gốc cây tiếp xúc với độ ẩm cao trong một thời gian dài, khi cây bị vết xước do sâu hoặc dụng cụ canh tác gây nên.

Thăm vườn thường xuyên, chú ý phần gốc khi thấy bệnh chớm phát dùng dao cạo vỏ chỗ bị bệnh, cạo cả tầng sinh gỗ phái dưới rồi xịt thuốc đặc hoặc quét, đắp thuốc dưới dạng bột nhão.

Sử dụng gốc ghép chống chịu tốt.

2- Bệnh loét:

Gây ra bởi vi khuẩn Xanthomonas citri. Lá, cành, trái non đều bị hại, dễ thấy nhất là lá non. Vi khuẩn xâm nhập vào qua các lỗ khí hoặc vết xước, lúc đầu là những vết nhỏ bằng đấu đinh màu vàng nhạt ở mặt dưới lá, sau phát triển thành những mụn lở 3 – 8 mm cả mặt trên và mặt dưới lá chuyển sang màu vàng rồi nâu sần sùi, xung quanh có quầng màu vàng nhạt.

3- Bệnh ghẻ: Từ trong thời gian ở vườn ương.

Do một loại nấm Elsinoe tawcetti gây ra. Nấm gây hại ở lá non, cành. Trái non kể cả trái mới đậu. Biểu hiện vết bệnh giống bệnh loét nhưng có khác biệt là mụn (vết bệnh) chỉ bám ở mặt lá, trong khi vết loét thì xuyên qua dễ dàng phiến lá và ở cả 2 mặt lá. Lá bị hại cũng xoăn lại, quăn queo.

4- Bệnh thán thư: Do nấm Collectotrichum gloeosporioides gây nên.

Gây hại trên đọt non, lá non mới sinh, trái non mới đậu. Đọt non bị hại sẽ chết hoại, chuyển màu đen, nhũn ra, sau đó chết khô. Trái trở thành dị dạng, lá có những vùng chết hoại khá rộng, thủng và xoăn.

5- Bệnh vàng lá Greening: Do vi khuẩn gây ra và được lây lan bởi rầy chổng cánh.

Bệnh có thể thấy trên tán lá ở bất kỳ mùa nào trong năm. Biểu hiện như sau: từng phần lá bị đổi màu, cành khô chết, lá lốm đốm xanh vàng, lá vàng gân xanh giống triệu chứng thiếu kẽm. Đa số gân lá vẫn còn xanh trong khi phần thịt lá bị biến vàng, lá mới ra có phiến lá hẹp và nhọn thẳng đứng như tai thỏ là triệu chứng điển hình của bệnh. Trên trái sẽ bị lệch tâm và thui hạt (nhất là trên quýt đường), vị đắng, màu trái mất bình thường và cây ít trái. Cây ra hoa nhiều đợt.

V – Thu Hoạch

Trồng bằng phương pháp chiếc cành cây sẽ cho trái sau 3 năm và năng suất ổn định từ năm thứ 6 trở đi. Thời gian từ ra hoa đến thu hoạch là 6 – 7 tháng. Năng suất trung bình 15 – 20 tấn, có trường hợp 300 trái/ cây.

Vụ thu hoạch chính có giá trị là bưởi Trung thu và bưởi Tết.

Về hiệu quả kinh tế 1 năm có thể đạt từ 30 – 40 triệu đồng/ năm khá cao đối với một số loại cây trồng khác.