Lần đầu tiên, một festival về trái cây sẽ được tổ chức tại tỉnh Tiền Giang từ ngày 19 - 24/4/2010. Lần đầu tiên một festival về trái cây được tổ chức hoành tráng và quy mô. Xin Viện trưởng cho biết, đâu là cơ hội của ngành trái cây Việt Nam thông qua festival này? Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long vốn được xem là “vựa” trái cây của cả nước, vì vậy, việc tổ chức festival giới thiệu tiềm năng, thế mạnh này là việc nên làm. Điều tra cho thấy, trái cây hiện được người tiêu dùng bình chọn là mặt hàng thiết yếu thứ năm trong đời sống hàng ngày, nghĩa là thị trường đang rất rộng mở. Nhu cầu về các sản phẩm trái cây nhiệt đới như dứa (khóm), chuối, xoài, đu đủ, nhãn, chôm chôm, sầu riêng, bơ, măng cụt..., đang rất cao và ngày càng gia tăng. Trong khi những sản phẩm này lại là thế mạnh của chúng ta. Theo đánh giá của các chuyên gia và báo chí quốc tế, trái cây của chúng ta không thua kém các sản phẩm cùng loại trong khu vực về chất lượng. Chính vì vậy, Festival Trái cây Tiền Giang 2010 là dịp để quảng bá hình ảnh trái cây Việt Nam để được thế giới biết đến nhiều hơn, đồng thời có thể học hỏi kinh nghiệm của Thái Lan, Trung Quốc, những quốc gia vốn khai thác rất tốt tiềm năng của ngành sản xuất và xuất khẩu trái cây. Điều chúng ta cần tham khảo ở nước bạn là kinh nghiệm xây dựng các vùng chuyên canh trái cây lớn; các hợp tác xã kiểu mới và kinh nghiệm quảng bá sản phẩm. Đây vốn là điểm yếu của ngành sản xuất và xuất khẩu trái cây Việt Nam khi việc quy hoạch các vùng sản xuất chưa rõ ràng, mỗi địa phương chưa tạo được sản phẩm đặc thù. Và điều quan trọng hơn, festival này sẽ là cơ hội để nâng tầm cho trái cây Việt Nam. Trên thực tế, mấy năm gần đây, xuất khẩu trái cây có nhiều khởi sắc, nhiều sản phẩm đã nhận được “giấy thông hành” quý giá để ung dung bước vào những thị trường vốn được xem là “khó tính” như Hoa Kỳ, EU... Riêng năm 2009, kim ngạch xuất khẩu rau quả đã đạt 438 triệu USD, đây là con số đáng mừng trong bối cảnh nền kinh tế thế giới suy thoái trầm trọng. Hơn nữa, việc xuất khẩu vào Hoa Kỳ, Nhật Bản vốn là niềm mơ ươc thì trong năm 2008, 2009 đã làm được. Mặc dù có khá nhiều tiềm năng với những giống cây ăn trái chất lượng nhưng thực tế trong nội tại của ngành vẫn còn khá nhiều bất ổn. Theo Viện trưởng, khó khăn lớn nhất của ngành sản xuất, xuất khẩu trái cây Việt Nam là gì? Đâu là giải pháp để hóa giải thách thức đó? Đúng là trong nội tại của ngành sản xuất và xuất khẩu trái cây Việt Nam còn tồn tại khá nhiều bất ổn, chủ yếu do phương thức sản xuất tiểu nông vốn đã hình thành từ bao đời. Chính vì quy mô sản xuất mới dừng lại ở hộ gia đình nên mặc dù có rất nhiều loại trái cây đặc sản nhưng Đồng bằng sông Cửu Long vẫn chưa có những vùng chuyên canh lớn, chưa xác định được ai là “nhạc trưởng” trong chuỗi sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Và cũng chính vì sản xuất manh mún nên tính liên kết, hợp tác giữa các nông hộ chưa cao, không thể tạo ra số lượng sản phẩm lớn khi thị trường yêu cầu và đặc biệt là chất lượng sản phẩm không đồng đều, trong khi đây lại là yêu cầu quan trọng của các lô hàng xuất khẩu. Đã từng có những câu chuyện “cười ra nước mắt” xung quanh việc thu mua trái cây xuất khẩu. Chỉ mới đây thôi, những người trồng bưởi Năm Roi thở ngắn than dài khi sản phẩm không tiêu thụ được hoặc có bán thì giá cũng rẻ như bèo, trong khi một cơ sở thu mua xuất khẩu phải chạy đôn chạy đáo khắp nơi cũng không gom đủ số hàng đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu. Còn một tồn tại khá lớn trong ngành sản xuất trái cây là công tác bảo quản sau thu hoạch quá kém và lạc hậu so với các nước. Việc thu hoạch, vận chuyển, đóng gói, bảo quản không đúng cách với công nghệ lạc hậu khiến tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch của ngành sản xuất rau quả rất cao (lên đến 20%). Và cũng do hạn chế về công nghệ xử lý sau thu hoạch nên hầu hết trái cây Việt Nam bị ruồi đục quả, một loại dịch hại cây trồng và là đối tượng kiểm dịch của các nước có nhu cầu lớn về trái cây nhiệt đới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia, New Zealand, Hàn Quốc,... Thậm chí, ruồi đục quả là một trong những nguyên nhân chính làm giảm đáng kể sản lượng xuất khẩu trái cây tươi. Bên cạnh đó, vai trò hỗ trợ doanh nghiệp của Nhà nước chưa được thể hiện rõ nét. Khi gặp khó khăn trong xuất khẩu, doanh nghiệp không biết tìm đến ai để tìm sự trợ giúp. Để hóa giải những thách thức này, theo tôi, các địa phương phải nhanh chóng quy hoạch các vùng chuyên canh cây ăn trái lớn. Theo đó, cần thiết phải tổ chức lại sản xuất, mỗi tỉnh chỉ nên chọn 1-2 loại cây ăn trái để tổ chức sản xuất lớn, ít nhất là vài ngàn hécta cho một loại cây. Từ kinh nghiệm sản xuất tại tỉnh Bình Thuận cho thấy, họ đã bước đầu thành công trong việc xây dựng thương hiệu cho trái thanh long, bắt đầu bằng việc tổ chức sản xuất theo các tiêu chuẩn quốc tế để có được “visa” (thị thực nhập cảnh) trong xuất khẩu. Ngoài ra, Nhà nước cũng tăng cường sự hỗ trợ bằng cách xây dựng hệ thống hạ tầng (đường giao thông, nhà kho, nhà đóng gói, trụ sở hợp tác xã...); hỗ trợ các doanh nghiệp về thông tin thị trường và tiếp thị sản phẩm ra thị trường quốc tế. Để đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực sản xuất cây ăn trái cần ngăn chặn tình trạng chảy máu chất xám ở các viện nghiên cứu bằng cách đổi mới cơ chế quản lý giống như các công ty tư nhân, được trả lương theo hiệu quả công việc thay vì cào bằng như hiện nay để giữ chân người giỏi, tâm huyết. Hiện nay, nhiều địa phương đã triển khai chương trình sản xuất trái cây theo tiêu chuẩn GAP nhưng thực tế mới dừng lại ở mô hình, việc nhân rộng còn gặp nhiều khó khăn. Theo Viện trưởng, đâu là nguyên nhân và cách khắc phục? Việc nhiều mô hình sản xuất trái cây được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn an toàn (EurepGAP, GlobalGAP) như vú sữa Lò Rèn (Châu Thành - Tiền Giang), thanh long Bình Thuận hay chôm chôm Chợ Lách (Bến Tre),... là tín hiệu vui, cho thấy nhiều nông dân đã bước đầu thay đổi tư duy, nhận thức trong sản xuất, coi việc sản xuất sạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm là điều kiện cần thiết để tham gia xuất khẩu. Hiện nhiều địa phương cũng bắt đầu triển khai hướng dẫn nông dân sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Tuy nhiên, có một thực tế là, việc sản xuất theo các tiêu chuẩn an toàn mới chỉ dừng ở các mô hình mà chưa thể nhân ra diện rộng. Sở dĩ có tình trạng này, theo tôi là do chưa có sự vào cuộc mạnh mẽ của Nhà nước thể hiện qua các chính sách hỗ trợ. Hiện nay, khi triển khai tổ chức sản xuất theo hướng GAP, ngoài sự hỗ trợ của một số tổ chức như Metro, ADC, người nông dân phải bỏ ra một khoản kinh phí khá lớn, có khi lên đến hàng trăm triệu đồng để tổ chức lại sản xuất, đầu tư hệ thống hạ tầng phù hợp với yêu cầu để nhận được một tờ giấy chứng nhận mỏng manh. Trong khi Nhà nước chưa có cơ chế hỗ trợ cho việc này. Chính vì vậy, để mở rộng vùng sản xuất ra vài trăm hécta thì một mình nông dân không thể làm nổi. Cái khó nằm ở chỗ hiện nay chưa có chủ trương cụ thể, nếu mở rộng diện tích thì ai sẽ hỗ trợ. Ngoài ra, công tác tập huấn, nâng cao nhận thức cho nông dân về sản xuất an toàn theo tiêu chuẩn GAP cũng chỉ tổ chức theo bề rộng mà chưa đi vào chiều sâu. Theo tôi, điều quan trọng nhất hiện nay để nhân rộng các mô hình sản xuất theo hướng GAP là Nhà nước phải kịp thời ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp. Với tư cách là một nhà khoa học, theo Viện trưởng, làm thế nào để nâng cao chất lượng của mối liên kết “4 nhà”, vốn lâu nay được coi là lỏng lẻo để ngành trái cây phát triển bền vững? Lâu nay, mối liên kết “4 nhà” trong sản xuất nông nghiệp nói chung, ngành trái cây nói riêng vẫn được cho là lắm vấn đề khi mà lượng nông sản được bao tiêu qua hợp đồng còn rất hạn chế. Chưa kể những vụ phá vỡ hợp đồng giữa doanh nghiệp và nông dân vẫn xảy ra như cơm bữa. Vì vậy, để nâng cao chất lượng mối liên kết “4 nhà”, theo tôi, chính quyền từng tỉnh phải là chỉ huy ban đầu để tổ chức sản xuất, khi đã có sản phẩm tốt với số lượng lớn thì sẽ có doanh nghiệp đến thu mua theo hợp đồng. Còn tôn trọng hợp đồng hay không thì rất khó nói vì hiện nay vẫn chưa có cơ chế để “4 nhà” vận hành tốt. Ngoài ra, để xây dựng giá thu mua hợp lý cho nông dân nên bớt các khâu trung gian bằng hình thức tạo điều kiện cho nhà vườn tham gia các hợp tác xã hoặc bằng hình thức đấu giá sản phẩm do nhà vườn đem đến các chợ đầu mối. Bằng việc gia nhập hợp tác xã, nhà nông có thể trở thành nhà doanh nghiệp, vì lúc đó họ có số vốn khá, có kho mát, có thể mặc cả tốt hơn trong việc bán hàng. Nói chung, cá nhân tôi thấy, vai trò cầm trịch của Nhà nước trong mối liên kết này là rất quan trọng. Vì vậy, chúng ta nên tổng kết, đánh giá hiệu quả của việc liên kết này, trên cơ sở đó tìm ra một mô hình phù hợp nhất giúp ngành nông nghiệp, trong đó có sản xuất trái cây phát triển bền vững. Xin chân thành cảm ơn ông! |