00:00 Số lượt truy cập: 2670002

Phân tích chuỗi giá trị cây chè tỉnh Thái Nguyên (P1) 

Được đăng : 03/11/2016

PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ CÂY CHÈ

TỈNH THÁI NGUYÊN


I- Phần mở đầu:

1- Giới thiệu chung:

Chè là cây công nghiệp chủ lực có giá trị kinh tế cao ở Thái Nguyên. Nông dân Thái Nguyên có nhiều kinh nghiệm trồng, chế biến chè và đã biết tận dụng lợi thế về đất đai, khí hậu tạo nên hương vị đặc trưng cho chè Thái Nguyên. Hiện nay, toàn tỉnh có 16.413 ha chè, trong đó diện tích cho sản phẩm có 14.122 ha, năng suất bình quân 66,75 tạ/ha, sản lượng chè búp tươi gần 95.000 tấn. Căn cứ vào điều kiện đất đai và khí hậu của tỉnh, vùng chè nguyên liệu được chia làm hai vùng. Vùng nguyên liệu để chiến biến chè xanh bao gồm các huyện: Thành phố Thái Nguyên, Đại từ, Phú Lương, Đồng Hỷ, Phổ Yên, Sông Cầu, Võ Nhai, với diện tích 12.400 ha, chiếm 73% diện tích chè của cả tỉnh. Trong đó, chè xanh đặc sản có gần 4.000 ha, với các địa danh nổi tiếng như Tân Cương, Phúc Xanh, Phúc Trìu (T.P Thái Nguyên), La Bằng, Khuôn Gà-Hùng Sơn (Đại Từ), Tại Cài-Minh Lập, Sông Công (Đồng Hỷ) và Phúc thuận (Phổ Yên). Vùng chè nguyên liệu để chế biến chè đen bao gồm phần lớn chè của Định Hóa, Phú lương với diện tích 4.000 ha, chiếm 27% diện tích chè toàn tỉnh. Chè Thái Nguyên được tiêu thụ cả thị trường trong và ngoài nước, trong đó thị trường nội địa chiếm 70% với sản phẩm là chè xanh, chè xanh đặc sản. Nghề trồng và chế biến chè đã đem lại hiệu quả lớn về kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh. Chè thực sự là cây xóa đói, giảm nghèo và làm giàu của nông dân Thái Nguyên.

Trước thời kỳ "Đổi mới" do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng năm 1986, người nông dân nói chung và người trồng chè nói riêng chỉ có thể là thành viên của một trong hai loại hình tổ chức sản xuất là hợp tác xã (kiểu cũ) hoặc nông trường quốc doanh. Sau khi thực hiện công cuộc "Đổi mới", hộ gia đình nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ, được giao quyền sử dụng đất lâu dài. Nhiều hộ đã phát triển sản xuất kinh doanh tốt, ở một quy mô lớn, được gọi là các hộ trang trại. Các HTX kiểu cũ đã chuyển đổi theo luật HTX thành HTX kiểu mới. Thêm vào đó, được sự hỗ trợ của chính quyền, các đoàn thể địa phương, các tổ chức NGOs đặc biệt là tổ chức CECI, nhiều HTX mới được thành lập.

Đối với các nông trường quốc doanh, thực hiện Nghị định 01, năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ, các nông trường quốc doanh đã chuyển thành Công ty TNHH Nhà nước một thanh viên (gọi tắt là DNNN) và tiến hành giao đất cho gia đình công nhân để quản lý và sử dụng trong thời hạn 50 năm. Các hộ nông trường viên có trách nhiệm bán sản phẩm cho doanh nghiệp.

Trước thập niên 90, hầu hết chè được bán cho các DNNN để sơ chế và chế biến, sau đó bán cho VINATEA để xuất khẩu. Tuy nhiên, những năm sau đó, cùng với sự chuyển biến trong sản xuất, đã xuất hiện nhiều hình thức khác nhau trong chế biến và tiêu thụ sản phẩm chè, như các cơ sở chuyên chế biến tư nhân, hộ sản xuất kiêm chế biến biến, các công ty tư nhân, công ty liên doanh chế biến và xuất khẩu chè, các hộ mua gom, bán buôn,...

Như vậy, có thể thấy có nhiều tác nhân tham gia vào chuỗi giá trị cây chè. Trên cơ sở nghiên cứu tình hình thực tế, nhóm nghiên cứu thấy có một số tác nhân chủ yếu như: (i) các hộ nông trường viên: đây là những công nhân nông trường đã nhận đất của nông trường theo hợp đồng khi nông trường chuyển đổi thành công ty và các hộ có khả năng ký hợp đồng sản xuất cho DNNN hoặc công ty chè); (ii) Các hộ sản xuất trang trại: là những hộ có quy mô sản xuất lớn và không phải là nông trường viên; (iii) Các hộ sản xuất tự do: là những hộ có quy mô sản xuất nhỏ và cũng không phải là nông trường viên; (iv) Các hộ HTX: là những hộ tham gia HTX (gồm cả những hộ tham gia tổ, nhóm nông dân). Trong chế biến và tiêu thụ sản phẩm, có các cơ sở chuyên chế biến tư nhân, hộ sản xuất kiêm chế biến, DNNN, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh chế biến và xuất khẩu; người thu gom, người bán buôn,... Các tác nhân hỗ trợ như Sở NN&PTNT, Sở Thương Mại, các tổ chức NGO, các tổ chức đoàn thể quần chúng như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên,...Nhóm nghiên cứu cũng xác định có 4 kênh tiêu thụ sản phẩm chính và việc phân tích chuỗi giá trị được tập trung nhiều hơn vào xác định những cơ hộ và hạn chế trong việc giúp tăng giá trị cho sản phẩm của nông dân sản xuất nhỏ và giúp họ tiếp cận dễ dàng hơn với thị trường.

2- Mục tiêu nghiên cứu.

- Mô tả được kênh tiêu thụ sản phẩm và các thành phần chủ yếu tham gia các kênh này.

- Mô tả và phân tích được phần giá trị gia tăng do các thành phần tham gia tạo nên ở các giai đoạn khác nhau của các kênh tiêu thụ

- Xác định các cơ hội và hạn chế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, từ đó đưa ra các đề xuất nhằm nâng cao giá trị cho người sản xuất nhỏ.

3- Khung phân tích và Phương pháp nghiên cứu.

3.1- Khung phân tích:

Chuỗi giá trị có liên quan đến nhiều hoạt động cần thiết để đưa một sản phẩm (hoặc một dịch vụ) từ ý niệm, qua các giai đoạn sản xuất khác nhau đến tay người tiêu dùng cuối cùng và xử lý sau khi sử dụng (Kaplinsky và Morris 2001). Hơn nữa, một chuỗi giá trị tồn tại khi tất cả các bên tham gia chuỗi hoạt động nhằm tối đa hóa việc gia tăng giá trị trong suốt chuỗi. Phân tích chuỗi giá trị nhằm hiểu được các yếu tố khác nhau tạo ra động lực phát triển, khả năng cạnh tranh trong cùng ngành và xác định những cơ hội và hạn chế trong việc tăng lợi ích cho các bên hoạt động trong ngành. Khung phân tích sử dụng cho nghiên cứu này được thể hiện trong Sở đồ 1:

 

 

Sơ đồ 1

                

Đầu vào

Sản xuất

Chế biến

Bán lẻ

Bán buôn

Xuất khẩu

Các sản phẩm và dịch vụ hỗ trợ

Môi trường

                                


3.2- Phương pháp nghiên cứu.

Nghiên cứu sử dụng số liệu thu thập được trong quá trình khảo sát thực tế, đồng thời sử dụng các số liệu và thông tin có sẵn từ các cuộc điều tra trước đó. Phương pháp nghiên cứu bao gồm các phương pháp định tính và định lượng qua phỏng vấn các quan chức nhà nước, tổ chức nông dân, người sản xuất, người chế biến và tiêu thụ sản phẩm chè. Kết hợp giữa phỏng vấn cá nhân với thảo luận nhóm. Nhóm nghiên cứu tiến hành nghiên cứu và phân tích dựa trên những công cụ do AsiaDHRRA cung cấp.

Trong khuôn khổ thời gian và nguồn lực hạn chế, nhóm nghiên cứu không thể thu thập đầy đủ dữ liệu, thông tin và phân tích được tất cả các khía cạnh của quá trình sản xuất và tiêu thụ chè. Do vậy, nhóm nghiên cứu cố gắng sử dụng tối đa tất cả những thông tin thu thập từ cuộc điều tra này và các cuộc điều tra trước đó để phác họa một bức tranh tổng thể về chuỗi giá trị cây chè ở Thái Nguyên, xác định những cơ hội, hạn chế và thách thức đối với việc giúp tăng giá trị của sản phẩm của người sản xuất nhỏ, từ đó đưa ra những đề xuất phù hợp. Một điểm đáng lưu ý là trong phân tích, nhóm nghiên cứu sử dụng chỉ tiêu thu nhập thay cho chỉ tiêu lợi nhuận vì người sản xuất đại đa số là sử dụng lao động gia đình, đặc biệt là đối với các hộ sản xuất nhỏ. Điều này cũng tương tự đối với các hộ chế biến, thu gom và bán buôn. Hơn nữa, việc tính toán lợi nhuận trong thực tế rất khó khăn và khó đảm bảo độ chính xác vì không có số liệu thống kê về số ngày làm việc, số giờ làm việc trong một ngày của các đối tượng tham gia.

II- Giới thiệu khái quá trình về sản xuất và chế biến chè:

Để giúp cho quá trình phân tích và rút ra các kết luận có ý nghĩa thực tiễn cần thiết phải có hiểu biết cơ bản về quá trình sản xuất và chế biến chè. Qua khảo sát cho thấy tất cả các hộ được phỏng vấn đều cho biết sản xuất kinh doanh chè gồm 2 quá trình: quá trình sản xuất trồng trọt (kiến thiết cơ bản và chè kinh doanh) và quá trình sản xuất chế biến:

1-Quá trình sản xuất trồng trọt:

Công đoạn 100% các hộ đều thực hiện giống nhau là khâu trồng chè mới “Thời kỳ kiến thiết cơ bản” mất 3-4 năm đầu, cái khác nhau là khâu bón phân lót “kẻ nhiều, người ít”.

* Tạo tán:

Đốn phớt:

Su khi trồng được 1 năm thì thông thường người ta bấm ngọn để chè con ra cành và năm thứ 3 tiếp tục tỉa cành và sau mỗi năm (tới đầu vụ rét) người trồng chè tạo tán bằng cách đốn cành lá gọi là đốn phớt.

Đốn đau:

Sau khi bước vào thời kỳ kinh doanh được 9-10 năm thì tiến hành đốn tạo tán mới gọi là đốn đau.

Chăm sóc chè là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng chè và năng suất thu hái chè. Ngoài việc xới đất, trừ cỏ thì quan trọng là phải bón đủ số lượng và cơ cấu các loại phân bón, đồng thời phải kiểm soát được các loại sâu hại.

2- Quá trình sản xuất chế biến:

* Kỹ thuật thu hái thủ công:

Năm thứ 4, nông dân tạo tán cho cây chè để chè có tán mở rộng thích hợp để đạt sản lượng cao nhờ khâu hái chè. Yêu cầu của việc thu hái chè phải đảm bảo:

- 1 tôm, hai là (1 búp non + 2 lá non).

- Tăng năng suất bằng hái chè theo trật (chừa lại lá 3 và 4).

- Kịp thời xới xáo đất và bón phân cân đối NPK.

- Khi thu hái tránh làm búp chè bị dập, nát. Để xác định thời điểm khi nào có thể thu hái được lần tiếp theo, nông dân thường dùng phương pháp quan sát vườn chè theo kinh nghiệm.

* Kỹ thuật chế biến:

Chè tươi thu hái về cần chế biến kịp thời, không được để búp dập nát, không được để chè bị ôi. Chè bị ôi khi sao, sấy làm chất lượng chè bị giảm.

Sao chè:

Sao chè tươi là khâu then chốt để nâng cao chất lượng sản phẩm. Kinh nghiệm sao chè là sao đều và luôn luôn chỉnh lửa đều và quan sát mùa lá chè chuyển từ màu xanh tươi sang xanh và cầm tay có cảm giác dính, cuống chè uốn cong không gãy và chè có mùi thơm.

Vò chè:

Tiếp đó là công đoạn vò chè làm phá vỡ cấu trúc mô tế bào, kết dính dịch làm cho lá chè xoăn lại có dạng viên, dạng sợi. Vò là khâu quyết định hương vị, hình dáng sản phẩm của chè.

Sấy khô:

Sấy khô là khâu kết thúc quá trình làm héo và vò chè, lúc này cần nhỏ lửa giảm tỉ lệ nước theo qui định.

Bảo quản:

Bảo quản chè thành phẩm là cách giữ chè lâu mà vẫn giữ được hương chè. Sau khi sao, để nguội, cho vào túi giấy bóng dầy, kín là tốt nhất. Đây là khâu yếu của hộ nông dân, vì không bảo quản được, nông dân bán ngay chè sau khi sao.

III- Các kênh tiêu thụ sản phẩm

1- Kênh tiêu thụ có liên kết:

1.1- Thông qua hộ nông trường viên:

Hộ nông trường viên

Hộ hợp đồng

Cơ sở chế biến

Các công ty

DNNN

Người thu gom

Người bán buôn

- Xuất khẩu.

- Bán lẻ

 

VINATEA

Sơ đồ 2

         

 

* Đối với các hộ nông trường viên:

Theo hợp đồng giao đất, các hộ có quyền sử dụng đất, nhưng không có quyền sở hữu đất đó. Các hộ có thể nhượng quyền sử dụng đất, nhưng không dùng nó để thế chấp vay vốn ngân hàng được. Các hộ chỉ được trồng chè trên diện tích được giao, mà không được trồng các loại cây khác, đồng thời phải bán toàn bộ chè cho DNNN.

So với các hộ tự do và hộ HTX thì các hộ nông trường viên thường có quy mô sản xuất, trình độ văn hóa, trình độ thâm canh cao hơn do được đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật bởi cán bộ kỹ thuật của nông trường trước đây, đồng thời họ có điều kiện về vốn, được nông trường ứng vật tư nên ít phải vay vốn ngân hàng.

Toàn bộ khâu chế biến và tiêu thụ sản phẩm trong kênh này đều do DNNN lo, người sản xuất chủ yếu tập trung vào việc làm thế nào sản xuất ra sản phẩm với năng suất và chất lượng cao. Chè được sản xuất theo kênh này chủ yếu phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu, phần tiêu thụ trong nước rất ít.

Các hộ phải bán chè nông trường với mức giá không được quy định rõ trong hợp đồng giao đất, trong khi giá chè trên thị trường thường xuyên có sự biến động, nhưng đổi lại họ được hưởng một số lợi ích khác như hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp vật tư trả chậm, lương hưu, chăm sóc sức khỏe, học hành của con cái,... Do vậy, liên kết này tương đối ổn định. Tuy nhiên, nó có xu hướng suy yếu khi khi giá cả trên thị trường thay đổi theo chiều hướng không có lợi cho các hộ hoặc chất lượng sản phẩm của các hộ quá thấp không đáp ứng được tiêu chuẩn của nông trường. Trong cả hai trường hợp các hộ hoặc là bán chè tươi cho người thu gom hoặc là tự chế biến để tiêu thụ ra bên ngoài nhằm tăng thu nhập.

* Nông dân hợp đồng: Có hai loại:

Một là, nông dân mua quyền sử dụng đất của DNNN và ký một hợp đồng với DNNN không bao gồm bảo hiểm xã hội. Quyền sử dụng đất vẫn thuộc về DNNN và nông dân không thể sử dụng quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn ngân hàng. Việc tiếp nhận thông tin, tiến bộ kỹ thuật có sự hỗ trợ một phần của DNNN. Vật tư đầu vào có thể do DNNN cung cấp theo phương thức trả chậm hoặc các hộ tự lo. Trong liên kết này người sản xuất cũng không phải lo lắng nhiều về thị trường đầu ra, do đó, nó chặt chẽ, nhưng cũng khá linh hoạt. Hầu hết sản phẩm của nông dân được bán cho nông trường, mặc dù có lúc giá bán cho nông trường thấp hơn giá thị trường một chút, nhưng do lượng mua đều, giá thu mua tương đối ổn định và có sự điều chỉnh theo giá thị trường, đôi khi cao hơn giá thị trường.

Hai là, nông dân có đất ký hợp đồng với các công ty. Sau khi Chính phủ ban hành Quyết định 80 “Khuyến khích thu mua nông sản bằng hình thức hợp đồng" năm 2002, loại hình này được khuyến khích phát triển mạnh. Thỏa thuận trong liên kết này tương đối đa dạng. Có trường hợp công ty cung ứng vật tư đầu vào, hướng dẫn quy trình kỹ thuật và thu mua chè của nông dân theo giá thỏa thuận từ đầu vụ. Có trường hợp công ty chỉ ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho nông dân theo giá thỏa thuận và không cung cấp dịch vụ đầu vào. Các dịch vụ đầu vào thường do nông dân tự lo hoặc được sự hỗ trợ của các tổ chức quần chúng và chính quyền địa phương. Sự liên kết này bền chặt khi giá thu mua của công ty bằng hoặc cao hơn so với giá thị trường. Các hợp đồng rất dễ bị phá vỡ, nhất là khi giá chè ngoài thị trường cao hơn giá thu mua của công ty. Ngoài ra, rất khó xử lý những trường hợp phá vỡ hợp đồng.

Như vậy, có thể thấy tác nhân đóng vai trò chính trong chuỗi liên kết này là những doanh nghiệp chế biến lớn như các doanh nghiệp Nhà nước, công ty liên doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn, VINATEA. Các hộ nông trường viên và hộ hợp đồng có sử dụng đất của công ty có vai trò rất hạn chế. Các hộ hợp đồng tự do có vai trò nhất định, nhưng chưa rõ nét.

1.2- Qua các HTX hoặc tổ, nhóm nông dân:

Hộ HTX,

Tổ, nhóm

Cơ sở chế biến

Các công ty

HTX

Người bán buôn

Người thu gom

- Xuất khẩu

- Bán lẻ

Liên kết yếu:

Liên kết mạnh:

Sơ đồ 3

                  

 

 

Sau khi có luật HTX năm 1995, nhiều HTX được thành lập với mục tiêu nâng cao năng lực và hiệu quả trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho xã viên và cuối cùng là cải thiện đời sống của họ. Với sự giúp đỡ của chính quyền, các đoàn thể và các tổ chức NGOs, nhiều HTX chè ở Thái Nguyên đã được thành lập, nhưng qui mô còn nhỏ bé, chỉ vài chục xã viên. Riêng tổ chức phi chính phủ CECI, kể từ năm 2002, đã hỗ trợ thành lập 6 HTX.

Các HTX tiến hành các hoạt động hỗ trợ xã viên, như tưới tiêu, làm đất, điện sinh hoạt, mua phân bón trả chậm cho nông dân, cung cấp tín dụng lãi suất thấp, tập huấn kỹ thuật, cung cấp thông tin về thị trường và tranh thủ nguồn lực hỗ trợ của các cá nhân, và tổ chức trong và ngoài nước. Việc tiêu thụ sản phẩm cho xã viên được tiến hành theo phương thức là HTX ký hợp đồng với khách mua trước, sau đó huy động chè khô từ các thành viên. Khách mua bán cho các điểm bán lẻ hoặc cho các công ty để đóng gói xuất khẩu. Tuy nhiên, lượng sản phẩm tiêu thụ qua HTX còn rất hạn chế. Ví dụ, HTX Phúc Thành mới tiêu thụ được khoảng 10% lượng chè cho các xã viên, phần còn lại do các hộ tự tiêu thụ. Dù vậy, nông dân vẫn có nguyện vọng tham gia hợp tác xã với niềm tin là HTX sẽ phát triển và giúp họ cải thiện được điều kiện sống trong tương lai.

Qua nghiên cứu có thể thấy một số mặt tồn tại làm hạn chế sự phát triển của các HTX hiện nay là: lãnh đạo HTX chính là những người nông dân được bầu ra, mặc dù đã được đào tạo, tập huấn, tham quan trao đổi kinh nghiệm, nhưng do trình độ văn hóa thấp, không có nhiều điều kiện để tiếp xúc rộng rãi với nhiều đối tượng nên năng lực quản lý, điều hành, khai thác thị trường còn yếu. Vốn của HTX còn rất ít, chủ yếu là từ nguồn đóng góp lệ phí của các thành viên và hỗ trợ từ bên ngoài. Phần kinh phí này chỉ đủ để trang trải chi phí hành chính, thông tin liên lạc, không đảm bảo cho lãnh đạo HTX đi nghiên cứu mở rộng thị trường, tiến hành các hoạt động tuyên truyền, quảng bá sản phẩm của mình. Các xã viên sản xuất riêng theo quy mô gia đình, có hộ có phương tiện chế biến, có hộ không có, việc áp dụng các quy trình kỹ thuật trong sản xuất và chế biến không tốt như nhau, nên chất lượng sản phẩm không đồng nhất khi bán theo hợp đồng. Lợi ích trước mắt khi tham gia HTX của các thành viên chưa thực sự đáng kể, trong khi với sự giúp đỡ của các tổ chức đoàn thể và chính quyền địa phương, xã viên HTX vẫn có thể vay vốn với lãi suất thấp, tiếp cận thông tin thị trường và mua vật tư trả chậm. Do vậỵ, những ràng buộc của xã viên khi thực hiện hợp đồng còn lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng đôi khi HTX phải phá vỡ hợp đồng, đặc biệt khi giá thị trường cao hơn giá trong hợp đồng.

Bên cạnh những HTX chính quy còn có các hình thức liên kết, hợp tác phi chính quy dưới các hình thức tổ, nhóm, câu lạc bộ. Đây là những bước sơ khai để hình thành các HTX chính quy sau này. Các hình thức này được thành lập chủ yếu là do có sự hỗ trợ của các chương trình dự án với mục tiêu giúp nông dân sản xuất chè an toàn và chè hữu cơ, qua đó sẽ xây dựng thương hiệu và phát triển với quy mô lớn hơn. Tuy nhiên, thực tế khi trao đổi với nông dân và lãnh đạo địa phương cho thấy có một số khó khăn đối với những nông dân sản xuất chè an toàn và chè hữu cơ:

- Độ ngậy của chè an toàn, đặc biệt là hữu cơ thấp hơn chè thường nên khách hàng không thích.

- So với sản xuất chè thường, sản xuất chè an toàn, đặc biệt là chè hữu cơ phải tuân thủ quy trình kỹ thuật cao hơn, chi phí sản xuất trong nhiều trường hợp cao hơn, nhưng mẫu mã chè tươi không đẹp, năng suất thấp hơn. Đặc biệt khi đem ra thị trường, người tiêu dùng không phân biệt được đâu là chè an toàn, chè hữu cơ, đâu là chè thường. Giá bán nhiều khi ngang bằng hoặc thấp hơn chè thường (trong khi chè hữu cơ trên thế giới cao gấp khoảng 3 lần chè thường). Đề tạo niềm tin cho người tiêu dùng, nhiều HTX đã phải bỏ ra một khoản tiền không nhỏ để có được giấy chứng nhận chất lượng sản phẩm. Ví dụ, chi phí để có chứng nhận hữu cơ theo tiêu chuẩn quốc tế mất khoảng 4000-5000 USD. Khoản chí phí này chủ yếudo các tổ chức NGO hỗ trợ, song không phải là tất cả. Vì thế đây là một rào cản lớn đối với việc thâm nhập thị trường này, vì đa số các HTX không đủ ngân sách như vậy. Trên thực tế, ở Việt Nam chưa có bộ tiêu chuẩn hữu cơ chính thức của quốc gia và cũng chưa có cơ quan chứng nhận chất lượng sản phẩm hữu cơ. Đã có bộ tiêu chuẩn sản phẩm an toàn, nhưng giấy chứng nhận chất lượng do các cơ quan cấp chưa thực sự đảm bảo để người tiêu dùng hoàn toàn tin tường. Điều đó có nghĩa là người sản xuất chè an toàn và chè hữu co càng gặp khó khăn hơn khi tiêu thụ sản phẩm của mình.

- Diện tích sản xuất chè an toàn và chè hữu cơ còn nhỏ, vẫn nằm xen kẽ với diện tích trồng chè thường sử dụng nhiều phân bón và thuốc BVTV, nên sâu bệnh chuyển từ các vườn chè dùng thuốc sang các vườn chè an toàn và chè hữu cơ gây hại, làm giảm năng suất và chất lượng của hai loại chè này. Thông thường, khi chuyển từ sản xuất thông thường sang sản xuất chè hữu cơ phải mất 3-5 năm chuyển đổi mới đảm bảo yêu cầu. Điều này khiến những nông dân không kiên trì kém hứng thú.

- Các HTX cũng gặp khó khăn khi xây dựng thương hiệu và bảo vệ thương hiệu sản phẩm của mình.

(Còn nữa)