Khi trao đổi trực tiếp với cán bộ kỹ thuật địa phương - những người tiếp xúc thường xuyên đồng ruộng và bà con nông dân, thì nhiều anh chị em tỏ ra đồng thuận với việc làm của nông dân.
Mối quan hệ trồng lúa và nuôi vịt
Theo GS Nguyễn Thơ thì rầy nâu bột phát có tính chu kỳ. Thạc sỹ Lý Tửng, cán bộ kỹ thuật ở tỉnh Trà Vinh có nhận xét khi có dịch rầy nâu thì vùng 3 vụ lúa, vùng 2 vụ lúa, ngay cả 1 vụ lúa mùa đều nhiễm tuốt. Nghề nuôi vịt chạy đồng thường xuất hiện ở nơi sản xuất lúa tập trung. Tăng vụ lúa là điều kiện mở rộng diện nuôi vịt chạy đồng. Vùng ĐBSCL có đầu vịt chiếm tới 60% tổng đàn vịt cả nước. Tổng đàn gia cầm hiện nay ở ĐBSCL có khoảng 33 triệu con, thì đàn vịt chiếm 2/3, trong đó nuôi theo hình thức chạy đồng chiếm khoảng 70%. Có nước đã dùng vệ tinh viễn thám theo dõi đàn vịt qua mầu sắc của vùng trồng lúa.
Trung Quốc là nước có đàn vịt đứng đầu thế giới, đứng thứ hai là Việt Nam ta. Trung Quốc đang có nhiều nỗ lực thay đổi tập quán nuôi vịt, chuyển từ hình thức nuôi nước sang khô, hay bán công nghiệp và công nghiệp. Việt Nam ta cũng đang có quy hoạch và tầm nhìn như vậy. Có lẽ sẽ gặp nhiều khó khăn, và phải có biện pháp thích hợp khắc phục. Bởi vì làm vậy có thể trái với đặc tính sinh lý của vịt di truyền từ lâu đời là sống và vùng vẫy kiếm ăn trên mặt nước.
Mối quan hệ giữa nông dân trồng lúa và nuôi vịt là 2 bên cùng có lợi. Người nuôi vịt chỉ phải chi tiền thức ăn vài tháng đầu, sau đó đàn vịt tận dụng hạt lúa rơi rụng, kể cả hạt lửng hạt lép, cùng sâu bọ hại lúa, và một số ốc cua cá tép, cỏ dại; vịt còn sục bùn làm tơi thoáng đất. Cho nên, so với các hình thức nuôi vịt khác, thì cách nuôi vịt chạy đồng có lời nhất, lời hơn 10.000-11.000 đồng/con.
Người trồng lúa, ngoài tiền thu nhập do người nuôi vịt “mua đồng”, năng suất lúa còn tăng thêm do tác động của đàn vịt băng qua như kể trên, và còn giảm được vài lần xịt thuốc sâu rầy. Theo một kết quả nghiên cứu của trường Đại học Cần Thơ, ở ruộng có đàn vịt chạy qua có thể tăng năng suất lúa được ba, bốn tạ thóc/ha, dung trọng đất giảm được từ 0,87 xuống 0,73 (tính bằng g/cm3 đất lúa nguyên dạng), như vậy đất được xốp hơn.
Trồng 3 vụ lúa/năm có làm đất nghèo kiệt?
Mối quan hệ giữa việc trồng hơn 2 vụ lúa với đất thế nào, hiệu quả ra sao là vấn đề khá phức tạp, và cũng đã được nghiên cứu trong sản xuất cũng như trong điều kiện chính quy của các viện và trường đại học, ở cả trong và ngoài nước.
Tỉnh An Giang rất quan tâm đến vấn đề này, trước đây có lúc kỷ luật tới 7 chủ tịch xã do để dân làm 3 vụ lúa, mà cũng không dẹp được vụ 3. Nay đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo sản xuất, là giúp bà con nông dân làm vụ 3 tốt hơn ở nơi có điều kiện. PCT tỉnh An Giang Huỳnh Thế Năng vừa công bố trên thông tin đại chúng năng suất và hiệu quả sản xuất lúa TĐ ở An Giang cao hơn HT. Một ví dụ, anh Hoa Sỹ Hiền, 39 tuổi, ở xã Tân An, huyện Tân Châu, năm 2008 sản xuất lúa trên 2 ha, vụ ĐX đạt 8,5T/ha, vụ HT đạt 5,5-6,0T/ha, và vụ TĐ đạt 6-6,5T/ha.
Theo tổng kết sản xuất lúa ở tỉnh Trà Vinh: vụ TĐ trên 90 ngàn ha, trong đó có gần 19.000 ha lúa mùa, đạt năng suất bình quân là 4,38T/ha, giá thành sản xuất thấp nhất, từ 1.774đ đến 2.247đ/kg; vụ ĐX làm trên gần 54 ngàn ha, đạt 5,48T/ha, giá thành sản xuất 1.855đ – 2.557đ/kg; vụ HT có gần 83 ngàn ha, giá thành cao nhất: 2.241đ – 3.026đ/kg.
Tỉnh Đồng Tháp có kết quả nghiên cứu 3 vụ lúa phong phú nhất, được công bố bởi Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển ĐTM và phòng Nông nghiệp huyện Tháp Mười. Công trình nghiên cứu được thực hiện từ năm 2000 đến năm 2005. Nội dung nghiên cứu bao gồm nhiều yếu tố kỹ thuật trồng trọt, từ khâu làm đất, thời vụ, bón phân, phòng trừ sâu bệnh. Kết quả cho thấy: Vùng 2 vụ lúa không có đê bao, năng suất lúa ĐX đạt 6,46T/ha, HT đạt 4,64T/ha, đạt lãi thuần cả năm là 8,48 triệu đồng/ha; vùng 3 vụ lúa, có đê lửng chống lũ từng phần, năng suất lúa ĐX đạt 6,84T/ha, HT đạt 4,67T/ha, TĐ đạt 4,27T/ha, lãi thuần cả năm là 13,4 triệu đồng/ha; vùng 3 vụ lúa đê bao khép kín chống lũ triệt để, năng suất lúa ĐX đạt 6,50T/ha, HT đạt 5,18T/ha, TĐ đạt 4,78 T/ha, lãi thuần cả năm là 16,7 triệu đồng/ha. Như vậy, làm 3 vụ lúa lời hơn 2 vụ 5-8 triệu đ/ha/năm. Tất nhiên, kết quả nào cũng không thể đúng với mọi trường hợp.
Viện Lúa ĐBSCL bắt đầu vào cuộc từ giữa những năm 80 của thế kỷ trước đến nay, bằng các yếu tố thí nghiệm dài hạn và được kiểm soát chặt chẽ. Kết quả của hàng chục vụ thí nghiệm liên tục trên cùng 1 lô ruộng cho mỗi nghiệm thức cho thấy lô không bón phân, không cho nước lũ vào thì năng suất lúa giảm dần đến giới hạn nhất định. Có bón phân cân đối, có nước lũ đem phù sa đến, năng suất lúa tăng ở nhiều nghiệm thức, phù hợp với năng suất lúa toàn vùng tăng liên tục. Viện Lúa Quốc tế (IRRI) thừa nhận: quy luật hiệu suất sản xuất lúa giảm dần nói chung chưa thấy thể hiện ở ĐBSCL. Chính do có thí nghiệm dài hạn trên mà Viện Lúa ĐBSCL, sau đó là một số viện khác được tham gia màng lưới quốc tế Mega Project do IRRI điều phối nghiên cứu đảo ngược tình trạng hiệu suất sản xuất lúa giảm dần, hay năng suất lúa đạt tới mức nào đó thì muốn giữ ổn định, phải đầu tư nhiều hơn cho 1 đơn vị sản phẩm.
Tầm nhìn đến một nền nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu toàn cầu, khi nước biển dâng cao và khí hậu ngày một khắc nghiệt, thì tăng vụ lúa ở những nơi, những lúc có điều kiện, bằng những giống rất ngắn ngày như làm 3 vụ lúa, cùng với nuôi vịt chạy đồng sẽ trở thành hai trong những biện pháp nông nghiệp thích nghi hữu hiệu: né lũ và sống chung với lũ.
Tuy chưa được đầy đủ nhưng đã có cơ sở thực tế và cơ sở khoa học, và có sự chỉ đạo Chính phủ và của lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và PTNT về lúa vụ 3 và vịt chạy đồng. Bà con nông dân có thể yên tâm thực hiện, nếu thấy mình có điều kiện và có lợi.