Thả thêm bèo tây, bèo ván và bèo tấm vào ao, ruộng nuôi để làm thức ăn và nơi trú ẩn cho cua.
Cua đồng là loại thực phậm quá quen thuộc với người dân Việt Nam. Ngày xưa, chúng sống hoang dã, phổ biến ở bờ sông, bờ ruộng, nhưng hiện nay do sản xuất lúa tăng vụ, tình trạng nguồn nước bị ô nhiễm bởi hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, nước thải công nghiệp… cộng với tình hình khai thác thủy sản quá mức đã làm cho sản lượng cua ngày càng cạn kiệt, trong khi nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng, giá cả khá cao. Vì vậy, hiện nay nhiều hộ nông dân đã và đang triển khai mô hình nuôi cua đồng đem lại lợi nhuận cao. Nhờ đặc tính sống hoang dã nên nuôi cua đồng khá đơn giản và ít bệnh tật. Chỉ cần lưu ý một số biện pháp kỹ thuật là có thể thu được năng suất cao.
- Chuẩn bị ao nuôi: Có thể nuôi cua con thành cua thịt trong các dạng ao hồ riêng biệt, hay nuôi kết hợp trong ruộng lúa với hình dạng và kích cỡ khác nhau
+ Nuôi ao:
Ao nuôi nên thiết kế gần sông, có nguồn nước dồi dào và dễ cấp thoát nước; nền đáy ao, hồ nên là loại đất thịt pha sét hay cát, không quá nhiều bùn nhão (lớp bùn không quá 20cm); đất và nước ít bị nhiễm phèn, pH nước từ 6,5-8,5 và nhiệt độ từ 28-320C. Nên chọn ở những vùng quang đãng, không cớm rợp.
Diện tích ao nuôi cua đồng thương phẩm tùy theo điều kiện thực tế sẵn có để bố trí cho thích hợp, nên sử dụng ao có diện tích lớn từ 3.000 - 5.000 m2/ao để nuôi. Xung quanh bờ phải rào kỹ bằng đăng tre, tấm nhựa, lưới cước...và đặt hơi nghiêng vào ao, sao cho cua không thoát ra được.
+ Nuôi ruộng:
Chọn ruộng có diện tích khoảng 0.5-1 ha, địa thế bằng phẳng.. Các cửa cống cấp thoát nước phải chắn bằng đăng tre hoặc lưới thích hợp, nền cống phải đầm chặt, đào nhiều mương dọc ngang trong ruộng để cua trú ẩn. Diện tích 0,5-1ha, mức nước sâu lúc cao triều từ 0,8-1m, lúc triều cạn phải bảo đảm tối thiểu một nửa diện tích vùng có mức nước sâu 20-30cm. Cách rào chắn giống như nuôi cua trong ao, mép trên của lưới có tấm nilon cao 50cm để cua không bò trốn. Chân lưới cắm sâu xuống bùn 50-70cm.
Chuẩn bị ao, ruộng nuôi:
Trước khi nuôi 1-2 tuần, tiến hành chuẩn bị ao, ruộng nuôi. Tát cạn nước để diệt các địch hại của cua, bón vôi 7 - 10kg/100m2 và phơi ruộng 3 - 5 ngày. Hoặc tùy vào độ pH của ao mà ta có thể bón vôi. Trường hợp không tháo cạn nước được thì dùng rễ cây thuốc cá 1kg/100m3 nước để diệt các địch hại của cua.
Nước cấp vào ao được lấy qua lưới lọc nhằm ngăn chặn cá tạp vào ao gây thất thoát thức ăn của cua và địch hại vào ao gây ảnh hưởng đến cua giống. Mực nước cấp vào ao ban đầu dao động 40 - 50 cm nước để thuận tiện cho việc gây màu tạo thức ăn tự nhiên ban đầu trong ao cho cua. Tiến hành gây màu nước cho ao bằng phân chuồng hoặc phân hóa học để tạo nguồn động vật phù du phát triển làm thức ăn cho cua giống mới thả. Trên mặt ao nuôi bố trí các giá thể để làm nơi trú ẩn cho cua, diện tích nơi trú ấn chiếm ¼ - 1/3 diện tích ao nuôi, thả thêm bèo tây, bèo ván và bèo tấm để làm thức ăn và nơi trú ẩn cho cua.Ruộng nuôi cua nên sử dụng lúa cấy để tạo những khoảng trống cho cua di chuyển và tìm thức ăn được thuận lợi, trồng lúa thân lá cứng, không bị đổ ngã. Ngoài ra, có thể thả nuôi thêm ốc bươu, ốc lát làm thức ăn tự nhiên cho cua đồng thời cũng giúp giải quyết thức ăn dư thừa và là nguồn lợi đáng kể khi thu hoạch cua thịt.
- Cho ăn và chăm sóc
* Cho ăn
Cua đồng là loài ăn tạp thiên về động vật nên thức ăn cho cua khá đa dạng,có thể sử dụng thức ăn công nghiệp hoặc thức ăn tự chế như cá tạp, cám, ngô…phối trộn để cho cua ăn.như cá tạp, ốc, rau, khoai lang, khoai mì,...Bổ sung thêm thức ăn viên (chìm) giàu dinh dưỡng cho cua khoảng 7-10ngày/lần trong suốt quá trình nuôi đẻ giúp cua lớn nhanh.Ngoài ra, có thể thả nuôi thêm ốc bưu, ốc lát làm thức ăn tự nhiên cho cua đồng thời cũng giúp giải quyết thức ăn dư thừa và là nguồn lợi đáng kể khi thu hoạch cua thịt.
Đối với thức ăn công nghiệp:
+ Giai đoạn 1 - 2 tháng nuôi đầu: cho ăn 2 - 3 % khối lượng cua trong ao.
+ Giai đoạn nuôi về sau: cho ăn 1 - 2 % khối lượng cua trong ao.
Đối với thức ăn tự chế:
+ Giai đoạn 1 - 2 tháng nuôi đầu: cho ăn 4 - 6% khối lượng cua trong ao.
+ Giai đoạn nuôi về sau: cho ăn 6 - 8% khối lượng cua trong ao.
Mỗi ngày cho ăn hai lần, sáng sớm 20-40% khẩu phần ăn phần còn lại cho ăn vào chiều mát. Tuy nhiên, thời điểm cho cua ăn thích hợp nhất là lúc nước lớn. Không nên cho cua ăn những loại thức ăn đã bị mốc hoặc ôi thiu. Nên bố trí bố trí khoảng 5–7 chổ ăn cố định cho mỗi 1.000m2 ruộng nuôi.
Chăm sóc:
Thường xuyên thay nước cho ao, ruộng nuôi khoảng 1 tuần/lần để giữ môi trường trong sạch, đồng thời kích thích cua lột xác và bắt mồi mạnh, mỗi lần thay nước từ 1/4-1/3 lượng nước trong ao, mương. Kiểm tra, theo dõi hoạt động của cua nuôi nhằm phát hiện kịp thời các dấu hiệu bất thường để có biện pháp xử lý kịp thời.
Định kỳ một tháng/lần sử dụng vôi bột hòa nước tạt trên mặt ao nuôi với lượng 2 kg/100 m2 ao nhằm phòng bệnh cho cua nuôi và tăng cường thêm hàm lượng canxi trong nước ao giúp cua nhanh cứng vỏ sau khi lột xác, tăng cường khả năng lột xác cho cua, kích thích cua phát triển.
Thực hiện tốt chế độ phòng bệnh cho cua nuôi, định kỳ sử dụng thuốc phòng bệnh và thường xuyên sử dụng Vitamin C, khoáng trộn vào thức ăn cho cua ăn hàng ngày để tăng sức đề kháng và giúp cua tăng trưởng tốt.
Định kỳ sử dụng vi sinh, chế phẩm sinh học, khoáng để xử lý môi trường nước, đáy ao nuôi đảm bảo môi trường nước luôn trong sạch và kích thích cua lột xác giúp cua tăng trưởng tốt.
- Thu hoạch
Sau thời gian nuôi 4 - 5 tháng, khi cua đạt kích cỡ thương phẩm 45 - 60 con/kg có thể tiến hành thu hoạch. Thời gian thu hoạch thường vào tháng 10, tuy nhiên, nếu cua chưa đạt kích thước như mong muốn, có thể tiếp tục thúc 1 thời gian nữa.
Phương pháp thu hoạch: Có thể thu tỉa bằng cách đặt lờ, lợp hay tháo nước, tát cạn và bắt thủ công bằng tay nếu thu hoạch toàn bộ. Tiến hành tuyển lựa, vệ sinh sạch sẽ và giữa cho cua sống để nâng cao giá trị, bán được giá cao hơn./.
Phương Anh