Cho cá lăng vàng đẻ quanh năm 

Được đăng : 13-12-2016 13:53:57
Thay vì thời gian có khả năng sinh sản chỉ khoảng 2-3 tháng/năm ở môi trường tự nhiên, giờ đây cá lăng vàng - Mystus nemurus - có thể “khai hoa nở nhụy” quanh năm... Thành công này nhờ bàn tay khéo léo của thạc sĩ Ngô Văn Ngọc (khoa thủy sản ĐH Nông lâm TP.HCM). Kết quả này cũng xứng đáng được trao huy chương vàng tại chợ công nghệ thiết bị quốc gia 2003...Có lẽ vì gắn bó nhiều năm với nghề nuôi trồng thủy sản nên thạc sĩ Ngọc rất am hiểu nhu cầu thực tiễn và triển vọng của nhiều loài thủy sản nước ngọt. Và cá lăng vàng là một trong những đối tượng nghiên cứu được nhà khoa học này đánh dấu ưu tiên. Ông cho biết đây là loài cá trơn, giá trị kinh tế cao, thịt trắng, thơm ngon và đặc biệt loài cá này vốn là món khoái khẩu của biết bao thực khách sành ăn uống.Cũng chính vì sự ưa chuộng của rất nhiều người, thêm vào đó bán được giá cao (35.000-45.000 đồng/kg), mà số lượng loài cá lăng vàng ở sông, suối, ao hồ... ngày một cạn dần, thậm chí đứng trước nguy cơ tuyệt diệt. Làm thế nào để bảo vệ loài cá này trong môi trường tự nhiên? Trước hoàn cảnh như thế, dường như không có..

Thay vì thời gian có khả năng sinh sản chỉ khoảng 2-3 tháng/năm ở môi trường tự nhiên, giờ đây cá lăng vàng - Mystus nemurus - có thể “khai hoa nở nhụy” quanh năm... Thành công này nhờ bàn tay khéo léo của thạc sĩ Ngô Văn Ngọc (khoa thủy sản ĐH Nông lâm TP.HCM). Kết quả này cũng xứng đáng được trao huy chương vàng tại chợ công nghệ thiết bị quốc gia 2003...
Có lẽ vì gắn bó nhiều năm với nghề nuôi trồng thủy sản nên thạc sĩ Ngọc rất am hiểu nhu cầu thực tiễn và triển vọng của nhiều loài thủy sản nước ngọt. Và cá lăng vàng là một trong những đối tượng nghiên cứu được nhà khoa học này đánh dấu ưu tiên. Ông cho biết đây là loài cá trơn, giá trị kinh tế cao, thịt trắng, thơm ngon và đặc biệt loài cá này vốn là món khoái khẩu của biết bao thực khách sành ăn uống.
Cũng chính vì sự ưa chuộng của rất nhiều người, thêm vào đó bán được giá cao (35.000-45.000 đồng/kg), mà số lượng loài cá lăng vàng ở sông, suối, ao hồ... ngày một cạn dần, thậm chí đứng trước nguy cơ tuyệt diệt. Làm thế nào để bảo vệ loài cá này trong môi trường tự nhiên? Trước hoàn cảnh như thế, dường như không có lựa chọn nào khác hơn hướng nghiên cứu nhắm đến việc “sinh sản nhân tạo cá lăng vàng” - một lựa chọn mà nhiều nhà khoa học đã gặt hái thành công đối với nhiêu loài thủy sản nước ngọt khác.
Ngay lập tức mục tiêu của hướng nghiên cứu này được thạc sĩ Ngọc xác lập: tạo giống cá lăng vàng nhằm đa dạng hóa đối tượng nuôi và bảo vệ loài cá này ngoài tự nhiên; đồng thời xây dựng qui trình sản xuất con giống, đáp ứng nhu cầu nuôi cá thương phẩm đối với người dân.
Thời điểm tháng 3-2002, khuôn viên trại thực nghiệm thủy sản - ĐH Nông lâm TP.HCM rộn ràng công tác chuẩn bị “sinh sản nhân tạo cá lăng vàng”. Bước đầu tiên - thuần dưỡng và nuôi vỗ cá bố mẹ - của qui trình này được triển khai thực hiện. Loạt cá lăng vàng (bố mẹ) đầu tiên gồm 300 cá cái và 200 cá đực được đưa về từ hồ Sông Mây và Trị An (tỉnh Đồng Nai) để thuần dưỡng trong ao đất. Khá nghiêm ngặt, cá được chọn làm bố mẹ phải qua vòng sơ khảo về “ngoại hình”: không dị tật, ngoại hình cân đối, trọng lượng từ 300g/con trở lên...
Việc thuần dưỡng được thực hiện từng bước, từng bước một. Trong thời gian đầu thức ăn cho cá lăng vàng gồm 50% cá tạp tươi sống, 50% cám gạo. Đồng thời tập cho cá dùng thức ăn dạng viên nổi để cá dần quen với thức ăn công nghiệp; đến lúc thích hợp thì chuyển hẳn sang nuôi vỗ bằng 100% thức ăn công nghiệp. Cá đực và cái được sống chung một ao, với diện tích phù hợp, độ sâu 1,2-1,4m. Cứ định kỳ bảy ngày kiểm tra tốc độ tăng trưởng một lần. Và chỉ khoảng bốn tháng nuôi vỗ cá cái đã thành thục sinh dục và có thể tiêm kích dục tố để chúng sinh sản; cá đực cũng được thuần dưỡng tương tự.
Sau khi tiêm kích dục tố cho cá đẻ, trứng được ấp ở nhiệt độ trung bình 29-30OC trong bể composite (hoặc bình weis) liên tục 20 giờ liền thì trứng nở thành cá bột, tỉ lệ nở đạt trên 80%. Đặc biệt, theo kết quả nghiên cứu cho thấy sức sinh sản thực tế của cá lăng vàng dao động từ 126.364-142.000 trứng/1kg cá mẹ. Kết quả sản xuất cá giống trong thực tế cho thấy cứ 1kg cá mẹ thì có thể sản xuất được 10.000-15.000 cá giống. Qui trình sản xuất con giống cá lăng vàng do thạc sĩ Ngọc công bố có thể sản xuất và cung cấp giống quanh năm.
Theo kết quả nghiên cứu, một năm có thể cho cá lăng vàng đẻ 4-5 lần (giữa hai lần sinh sản cách nhau 2,5-3 tháng). Tuy nhiên để giữ sức cho cá bố mẹ chỉ nên cho đẻ khoảng 2 lần/năm là vừa. Chưa dừng lại, công trình nghiên cứu còn bố trí các thí nghiệm để đúc kết ra qui trình nuôi ương cá bột thành cá giống. Theo đó, chỉ cần chăm sóc cẩn thận trong một tháng cá bột sẽ phát triển thành cá giống với chiều dài đạt 5-5,5cm, có thể thả nuôi làm cá thịt.
Chắc chắn kết quả nghiên cứu sẽ rất có ý nghĩa nếu qui trình sản xuất giống cá lăng vàng bằng phương pháp sinh sản nhân tạo được chuyển giao đến tay nhiều nông dân, ở nhiều địa phương trên khắp đất nước.