Kỹ thuật ươm nuôi và cách phòng trị bệnh cho cá sặc rằn 

Được đăng : 13-12-2016 13:53:59
...Trong điều kiện nhiệt độ thích hợp 25 – 35 độ C cá đạt trọng lượng khoảng 140 g/con sau 2 năm (ở ĐBSCL, quan sát cá đực và cá cái cùng kích thước, thường cá đực có trọng lượng nhỏ hơn...I. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC1. Sinh trưởng: Trong điều kiện nhiệt độ thích hợp 25 – 35 o C cá đạt trọng lượng khoảng 140 g/con sau 2 năm (ở ĐBSCL, quan sát cá đực và cá cái cùng kích thước, thường cá đực có trọng lượng nhỏ hơn. Hiện tượng cá đực có kích thước nhỏ, có thể do trong quá trình sinh sản, cá đực phải giữ tổ, và chăm sóc cá con, nên ăn ít, hoặc không ăn trong thời gian này.2. Dinh dưỡng: Cũng như nhiều loài cá khác, ở thời kỳ đầu sau khi nở, cá dinh dưỡng bằng noãn hoàng. Sau khi noãn hoàng tiêu biến, cá chuyển sang ăn thức ăn bên ngoài.Thức ăn ở thời kỳ đầu gồm nhiều loại, như phiêu sinh động vật (Ciliata, Rotifera , Copepoda, Cladocera), phiêu sinh thực vật (Bacillariophyceae, Cyanophyceae, Chlorophyceae) và thủy thực vật tan ra.Ở thời kỳ trưởng thành, cấu tạo bộ máy tiêu hóa của cá phù hợp với loài ăn tạp. Những loại thức ăn thường xuyên bắt gặp và chiếm khối lượng lớn trong ruột cá gồm: mùn bã hữu cơ, thực vật phiêu sinh, động vật phiêu sinh, mầm non thực vật, cũng như các loại thực vật thủy sinh mềm trong nước.Cá cũng sử dụng tốt các loại thức ăn do người cung cấp như: bột ngũ cốc các loại, động vật và khi thiếu thức ăn chúng ăn cả trứng của chính nó.3. Đặc điểm thành thục sinh dục của cá sặc rằnCá sặc rằn thành thục lần đầu sau 7 tháng tuổi. Khi thành thục, có thể phân biệt dễ dàng cá đực, cá cái bằng các biểu hiện bên ngoài của dấu hiệu sinh dục phụ. Khi thành thục, ở cá đực phần tia mềm vây lưng kéo dài tới hoặc vượt khỏi gốc vi đuôi, còn cá cái vi này rất ngắn và không bao giờ chạm tới gốc vi đuôi. Ngoài chỉ tiêu căn bản này, cũng có thể phân biệt cá đực với các sọc ngang đậm nét chạy từ lưng xuống bụng rõ hơn cá cái và miệng của nó cũng lớn hơn.Sự phát triển tuyến sinh dục của cá sặc rằn ở vùng ĐBSCL theo mùa rất rõ. Vào mùa khô (tháng 1 – 2), phần lớn cá ở giai đoạn II, sang tháng 3 giai đoạn III tăng dần và đã thấy xuất hiện những cá thể ở thời kỳ đầu của giai đoạn IV.Vào khoảng thời điểm giao mùa (khô sang mưa) là sự chuyển biến rất nhanh của tuyến sinh dục. Thời kỳ này, đa số cá có tuyến sinh dục ở giai đoạn IV, chỉ một ít cá ở giai đoạn III. Khi mùa mưa tới, nhất là sau những trận mưa rào đầu mùa, cá tìm tới những nơi nước cạn ven bờ, nhiều cây cỏ thủy sinh để sinh sản. Cá sinh sản trong suốt mùa mưa, nên trong đàn luôn xuất hiện những cá thể có mức độ thành thục khác nhau.Khi sinh sản cá sặc rằn bắt cặp và tìm đến vùng nước ven bờ, nơi có nhiều cây cỏ thủy sinh để đẻ. Hoạt động sinh sản bắt đầu với việc làm tổ bằng bọt của cá đực, sau đó cá cái đẻ trứng ra ngoài, trứng được thụ tinh và cũng chính cá đực dùng miệng gom trứng lại rồi đặt vào tổ bọt.Kể từ khi trứng thụ tinh, trong điều kiện nhiệt độ nước 27 – 29oC cá nở sau 20 – 23 giờ. Trong suốt thời gian này kể từ khi trứng đẻ tới nở và dinh dưỡng bằng noãn hoàng, cá đực thường xuyên bơi lội quanh tổ để bảo vệ và dùng vây quạt nước cung cấp oxy cho trứng.II. CHUẨN BỊ ĐÀN CÁ SINH SẢNĐàn cá dùng cho sinh sản có thể được nuôi trong các ao, đìa từ trước hoặc cũng có thể sử dụng cá đã thành thục (có trứng tốt) ở tự nhiên (trong ruộng, rừng tràm). Tuy vậy, cá được nuôi thì chủ động và hiệu quả hơn cá thu từ tự nhiên.1. Nuôi cá chuẩn bị cho sinh sảna. Ao dùng nuôi cá- Diện tích ao: tùy thuộc vào qui mô sản xuất, thông thường diện tích khoảng 100 m2 là thích hợp cho qui mô gia đình, ao có hình vuông hoặc chữ nhật.- Độ sâu: thích hợp là 0,5 – 0,8 m.- Đáy ao: có lớp bùn mỏng, khoảng 10 cm. Không nên có lớp bùn quá dày.- Chất nước: nước ao không bị phèn, độ pH thích hợp khoảng 7, không nhiễm độc (thuốc sâu), nước sạch, có điều kiện thay nước cho ao.- Ánh sáng: ao cần đầy đủ ánh sáng, không để cây cối quanh bờ che phủ ánh sáng chiếu vào ao. Mặt ao thoáng, không để cây cỏ, rong bèo phủ trên mặt ao.- Trước khi thả cá nuôi, ao cần được tát cạn, bón vôi để diệt hết các loại cá tạp. Bón 10 kg vôi bột/100 m 2 .b. Thời gian nuôi: Tiến hành thu gom cá và nuôi từ tháng 1 (tính theo dương lịch) không nên nuôi trễ hơn.c. Mật độ thả nuôi: Tùy theo kích thước cá thả nuôi. Thông thường chọn những con có trọng lượng từ 12 – 15 con/kg là thích hợp. Thả vào ao mật độ 0,5 kg/m 2 . Khi tiến hành thả cá cần lưu ý tỷ lệ giữa cá đực và cá cái là 1:1.d. Cho ănCá sặc rằn là loài cá ăn tạp, nên thức ăn sử dụng để nuôi cá có thể gồm nhiều loại tùy theo khả năng tìm kiếm và cung cấp của gia đình.Thức ăn tự chế: các loại thức ăn dùng để nuôi cá là : tấm cám, bột bắp, khoai lang, khoai mì, bánh dừa, bột cá… Tùy theo điều kiện từng gia đình mà sử dụng cho phù hợp. Nhưng trong các thành phần trên thì cố gắng có bột cá và cám. Những thứ khác thì tùy điều kiện mà cho thêm. Các loại thức ăn được trộn chung lại với ít nước để nắm..

...Trong điều kiện nhiệt độ thích hợp 25 – 35 độ C cá đạt trọng lượng khoảng 140 g/con sau 2 năm (ở ĐBSCL, quan sát cá đực và cá cái cùng kích thước, thường cá đực có trọng lượng nhỏ hơn...
I. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
1. Sinh trưởng: Trong điều kiện nhiệt độ thích hợp 25 – 35 o C cá đạt trọng lượng khoảng 140 g/con sau 2 năm (ở ĐBSCL, quan sát cá đực và cá cái cùng kích thước, thường cá đực có trọng lượng nhỏ hơn. Hiện tượng cá đực có kích thước nhỏ, có thể do trong quá trình sinh sản, cá đực phải giữ tổ, và chăm sóc cá con, nên ăn ít, hoặc không ăn trong thời gian này.
2. Dinh dưỡng: Cũng như nhiều loài cá khác, ở thời kỳ đầu sau khi nở, cá dinh dưỡng bằng noãn hoàng. Sau khi noãn hoàng tiêu biến, cá chuyển sang ăn thức ăn bên ngoài.
Thức ăn ở thời kỳ đầu gồm nhiều loại, như phiêu sinh động vật (Ciliata, Rotifera , Copepoda, Cladocera), phiêu sinh thực vật (Bacillariophyceae, Cyanophyceae, Chlorophyceae) và thủy thực vật tan ra.
Ở thời kỳ trưởng thành, cấu tạo bộ máy tiêu hóa của cá phù hợp với loài ăn tạp. Những loại thức ăn thường xuyên bắt gặp và chiếm khối lượng lớn trong ruột cá gồm: mùn bã hữu cơ, thực vật phiêu sinh, động vật phiêu sinh, mầm non thực vật, cũng như các loại thực vật thủy sinh mềm trong nước.
Cá cũng sử dụng tốt các loại thức ăn do người cung cấp như: bột ngũ cốc các loại, động vật và khi thiếu thức ăn chúng ăn cả trứng của chính nó.
3. Đặc điểm thành thục sinh dục của cá sặc rằn
Cá sặc rằn thành thục lần đầu sau 7 tháng tuổi. Khi thành thục, có thể phân biệt dễ dàng cá đực, cá cái bằng các biểu hiện bên ngoài của dấu hiệu sinh dục phụ. Khi thành thục, ở cá đực phần tia mềm vây lưng kéo dài tới hoặc vượt khỏi gốc vi đuôi, còn cá cái vi này rất ngắn và không bao giờ chạm tới gốc vi đuôi. Ngoài chỉ tiêu căn bản này, cũng có thể phân biệt cá đực với các sọc ngang đậm nét chạy từ lưng xuống bụng rõ hơn cá cái và miệng của nó cũng lớn hơn.
Sự phát triển tuyến sinh dục của cá sặc rằn ở vùng ĐBSCL theo mùa rất rõ. Vào mùa khô (tháng 1 – 2), phần lớn cá ở giai đoạn II, sang tháng 3 giai đoạn III tăng dần và đã thấy xuất hiện những cá thể ở thời kỳ đầu của giai đoạn IV.
Vào khoảng thời điểm giao mùa (khô sang mưa) là sự chuyển biến rất nhanh của tuyến sinh dục. Thời kỳ này, đa số cá có tuyến sinh dục ở giai đoạn IV, chỉ một ít cá ở giai đoạn III. Khi mùa mưa tới, nhất là sau những trận mưa rào đầu mùa, cá tìm tới những nơi nước cạn ven bờ, nhiều cây cỏ thủy sinh để sinh sản. Cá sinh sản trong suốt mùa mưa, nên trong đàn luôn xuất hiện những cá thể có mức độ thành thục khác nhau.
Khi sinh sản cá sặc rằn bắt cặp và tìm đến vùng nước ven bờ, nơi có nhiều cây cỏ thủy sinh để đẻ. Hoạt động sinh sản bắt đầu với việc làm tổ bằng bọt của cá đực, sau đó cá cái đẻ trứng ra ngoài, trứng được thụ tinh và cũng chính cá đực dùng miệng gom trứng lại rồi đặt vào tổ bọt.
Kể từ khi trứng thụ tinh, trong điều kiện nhiệt độ nước 27 – 29oC cá nở sau 20 – 23 giờ. Trong suốt thời gian này kể từ khi trứng đẻ tới nở và dinh dưỡng bằng noãn hoàng, cá đực thường xuyên bơi lội quanh tổ để bảo vệ và dùng vây quạt nước cung cấp oxy cho trứng.
II. CHUẨN BỊ ĐÀN CÁ SINH SẢN
Đàn cá dùng cho sinh sản có thể được nuôi trong các ao, đìa từ trước hoặc cũng có thể sử dụng cá đã thành thục (có trứng tốt) ở tự nhiên (trong ruộng, rừng tràm). Tuy vậy, cá được nuôi thì chủ động và hiệu quả hơn cá thu từ tự nhiên.
1. Nuôi cá chuẩn bị cho sinh sản
a. Ao dùng nuôi cá
- Diện tích ao: tùy thuộc vào qui mô sản xuất, thông thường diện tích khoảng 100 m2 là thích hợp cho qui mô gia đình, ao có hình vuông hoặc chữ nhật.
- Độ sâu: thích hợp là 0,5 – 0,8 m.
- Đáy ao: có lớp bùn mỏng, khoảng 10 cm. Không nên có lớp bùn quá dày.
- Chất nước: nước ao không bị phèn, độ pH thích hợp khoảng 7, không nhiễm độc (thuốc sâu), nước sạch, có điều kiện thay nước cho ao.
- Ánh sáng: ao cần đầy đủ ánh sáng, không để cây cối quanh bờ che phủ ánh sáng chiếu vào ao. Mặt ao thoáng, không để cây cỏ, rong bèo phủ trên mặt ao.
- Trước khi thả cá nuôi, ao cần được tát cạn, bón vôi để diệt hết các loại cá tạp. Bón 10 kg vôi bột/100 m 2 .
b. Thời gian nuôi: Tiến hành thu gom cá và nuôi từ tháng 1 (tính theo dương lịch) không nên nuôi trễ hơn.
c. Mật độ thả nuôi: Tùy theo kích thước cá thả nuôi. Thông thường chọn những con có trọng lượng từ 12 – 15 con/kg là thích hợp. Thả vào ao mật độ 0,5 kg/m 2 . Khi tiến hành thả cá cần lưu ý tỷ lệ giữa cá đực và cá cái là 1:1.
d. Cho ăn
Cá sặc rằn là loài cá ăn tạp, nên thức ăn sử dụng để nuôi cá có thể gồm nhiều loại tùy theo khả năng tìm kiếm và cung cấp của gia đình.
Thức ăn tự chế: các loại thức ăn dùng để nuôi cá là : tấm cám, bột bắp, khoai lang, khoai mì, bánh dừa, bột cá… Tùy theo điều kiện từng gia đình mà sử dụng cho phù hợp. Nhưng trong các thành phần trên thì cố gắng có bột cá và cám. Những thứ khác thì tùy điều kiện mà cho thêm. Các loại thức ăn được trộn chung lại với ít nước để nắm từng nắm nhỏ cho ăn trong một cái sàn ăn. Cho ăn khoảng 3% trọng lượng cá nuôi, tức là cứ 100 kg cá thì cho ăn 3 kg thức ăn trong một ngày.
Thức ăn công nghiệp: ngoài thức ăn tự chế biến như trên, nếu có điều kiện mua được thức ăn chế biến sẵn của các công ty Con Cò, CP… thì càng tốt. Những loại thức ăn này được chế biến dưới dạng viên nổi trên mặt nước, khi cho ăn ít bị hao. Khi sử dụng thức ăn công nghiệp thì hiệu quả nuôi cao hơn thức ăn chế biến ở gia đình. Thức ăn công nghiệp cũng cho ăn 2 – 3% trọng lượng cá.
e. Quản lý chăm sóc
- Công việc chủ yếu là tránh thất thoát cá do tràn bờ, do rắn ăn cá, do mất trộm, do cá tự ra khỏi ao…
- Thực hiện thay nước cho ao để tránh bị dơ bẩn.
f. Kiểm tra cá
- Sau khi thả cá nuôi được 2 tháng thì kiểm tra lần đầu tiên. Mục đích của lần này là xem cá mập ốm, chế độ nuôi (nhất là cho ăn) đã thích hợp chưa. Nếu thấy cá mập thì giảm lượng thức ăn, nếu thấy cá ốm thì tăng lượng thức ăn.
- Tháng 3 : Kiểm tra 1 lần
- Tháng 4: kiểm tra 2 lần
Mục đích của những lần kiểm tra tháng 3, tháng 4 là xem xét sự thành thục của cá để lập kế hoạch cho cá đẻ.
Thông thường vào tháng 4 đã có thể cho một số cá sinh sản được và cá sẽ đẻ nhiều vào tháng 5, 6 (đầu mùa mưa).
2. Thu gom cá tự nhiên cho sinh sản
a. Thời gian thu gom cá: Tùy thuộc vào nguồn cá tự nhiên. Có thể tiến hành vào tháng 4, 5, 6.
b. Điều kiện cá được thu gom
- Phải khỏe mạnh, có khả năng sinh sản (thành thục)
III. CHO CÁ SINH SẢN
1. Lựa chọn cá cho sinh sản
- Cá cái: lựa chọn những con khỏe mạnh, bụng lớn, mềm, hậu môn hơi hồng.
- Cá đực: những con khỏe mạnh, vuốt nhẹ vào bụng gần hậu môn thấy có sẹ màu trắng (giống mủ đu đủ). Lưu ý là sẹ ra rất ít phải quan sát kỹ.
- Tỷ lệ đực cái là : 1:1
2. Dụng cụ cho đẻ: Có thể dùng thau, khạp, lu, bể xi măng, bể đắp đất lót bạt…
3. Chích thuốc cho cá đẻ
* Thời gian chích: thường là chiều mát (khoảng 4 – 5 giờ chiều)
* Loại thuốc: có thể dùng HCG, hoặc LRH + Motilium
* Liều lượng thuốc dùng: 1 lọ HCG chích được cho 3,5 kg cá cái + 3,5 kg cá đực; 1 lọ LRH + 2 viên Motilium chích được cho 2 kg cá cái + 2 kg cá đực.
Sau khi chích thuốc thả cá vào dụng cụ cho đẻ, tỷ lệ 1 : 1. Cần đậy để cá khỏi nhảy ra ngoài.
Dùng lá môn hoặc lá sen úp lên mặt nước để cá làm tổ đẻ. Để ở nơi yên tĩnh, sau khi chích từ 8 – 10 giờ thì cá đẻ.
IV. KỸ THUẬT ƯƠNG NUÔI CÁ SẶC RẰN
1. Điều kiện ao
* Nguồn nước: phải dồi dào, có điều kiện cấp thoát nước cho ao khi cần thiết. Ao không bị khô cạn hoặc ngập úng. Nước phải có chất lượng tốt không bị phèn (pH = 7 là tốt nhất, không nên sử dụng ao có pH nhỏ hơn 6). Nước không bị nhiễm bẩn, không bị nhiễm độc (chủ yếu độc do thuốc trừ sâu).
* Diện tích: tùy thuộc qui mô sản xuất, điều kiện sẵn có và khả năng từng gia đình. Có thể tận dụng các kênh mương sẵn có để ương cá. Tuy nhiên, không nên sử dụng những kênh mương quá dài để tiện cho việc chăm sóc quản lý. Nếu kênh quá dài thì có thể chặn ngăn thành từng đoạn ngắn.
* Với phạm vi gia đình và tình hình hiện nay ở khu vực, ao ương cá sặc rằn nên có diện tích vài trăm m2 là thích hợp. Tùy theo yêu cầu lượng cá giống thả mà có thể có ít hay nhiều ao.
* Độ sâu: độ sâu ao dùng ương nuôi cá sặc rằn có thể biến động, nhưng để tiện cho chăm sóc quản lý và hoạt động của cá con, ao có độ sâu 0,8 – 1 m là thích hợp nhất.
* Chất đáy: không sử dụng ao đất phèn để ương cá, đáy ao là bùn hoặc bùn pha cát là tốt nhất. Độ dày bùn đáy ao thích hợp cho ương cá sặc rằn là 20 – 25 cm, không nên dùng ao có đáy quá trơ ít bùn (thường là ao mới đào) hoặc ao có đáy bùn quá dày (thường là ao lâu ngày không sên vét).
* Trường hợp dùng ao có đáy bùn dày thì trước khi thả cá nuôi, ao cần được tát cạn, sên vét bớt bùn đáy, chỉ để lại 20 – 25 cm.
* Điều kiện ánh sáng: Ao ương cá con cần đủ ánh sáng mặt trời. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng. Nếu sử dụng những ao thiếu ánh sáng thì kết quả ương nuôi cá sẽ thấp, ít khi thành công. Vì vậy, không nên để bóng cây che trên mặt ao.
2. Chuẩn bị ao trước khi thả cá nuôi
* Tát cạn ao.
* Bón vôi: thường dùng là vôi bột, bón 10 kg/100 m 2 ao. Những ao hơi bị phèn thì bón tăng hơn có thể tới 15 kg/100 m 2 .
* Tu sửa bờ, lấp lỗ mọi, chống ngập úng, chống rò rỉ, mất nước, chống cá khác (đặc biệt là cá lóc) vào ao.
* Phơi đáy ao: nếu gặp trời nắng mà phơi được đáy ao vài ngày thì tốt nhất. Nhưng lưu ý là những vùng đất bị nhiễm phèn thì không nên phơi lâu.
* Bón phân: có thể dùng phân gà, phân heo, hoặc phân xanh (các loại lá xanh, tốt nhất là lá điên điển) để bón lót cho ao từ 15 – 20 kg/100 m 2 ao.
* Lấy nước cho ao: nước cần được lọc qua lưới dày trước khi đưa vào ao để tránh tép, cá khác vào ao. Nước cấp cho ao đủ độ sâu cần thiết từ 0,8 – 1 m.
* Diệt trừ địch hại trước khi thả cá, nhất là trứng ếch nhái và bọ gạo. Để diệt trứng ếch nhái cần có sự kiên trì, tỉ mỉ, vào mỗi buổi sáng đi quanh ao vớt bỏ trứng ếch nhái. Để diệt bọ gạo, sử dụng dầu lửa 1 lít/100 m2 ao, dầu lửa được rải xuống đầu ao, phía đầu gió cho lan tràn khắp ao. Sau khi thả dầu lửa xuống ao được một ngày thì có thể thả cá bột.
3. Thả cá bột xuống ao
- Tuổi cá thả nuôi: sau khi cá nở 2-3 ngày (tức là khi thấy cá bơi lội nhanh nhẹn) thì đem thả xuống ao. Tính từ lúc chích cho cá đẻ thì khoảng 4 ngày sau khi chích. Vấn đề này liên quan đến thời gian chuẩn bị ao.
- Thời gian thả cá: thích hợp nhất là từ 8 – 9 giờ sáng và những lúc trời không có mưa lớn. Tránh thả cá vào những khi nhiệt độ nước quá cao.
- Mật độ thả : 400 – 500 con/m 2 là thích hợp
4. Cho ăn chăm sóc
- Sau khi bón phân lần đầu tiên (bón lót) lúc ao còn cạn nước, thì sau 1 tuần lấy nước vào ao, cần bón thêm một lần phân. Lần thứ hai này chỉ bón 10 kg/100 m 2 tức là chỉ bằng 1/2 lần đầu.
- Cho ăn: sau khi thả cá bột xuống ao, tiến hành cho ăn ngay:
+ Trong tuần lễ đầu tiên: mỗi ngày cho ăn 2 lần, mỗi lần 2 lòng đỏ trứng gà (vịt) luộc + 0,5 kg bột đậu nành.
+ Tuần lễ thứ 2: mỗi ngày cho ăn 2 lần, mỗi lần 1 kg cám mịn + 0,5 kg bột cá/100 m 2 ao.
+ Từ tuần lễ thứ 3: tùy theo mức độ ăn của cá mà tăng thêm lượng thức ăn cho phù hợp. Thông thường mỗi ngày khoảng 3 kg (bột cá + cám) cho 100 m2 ao là phù hợp.
- Quản lý cá: thường xuyên quan sát ao cá, tránh bị mọi, tràn bờ, kịp thời phát hiện địch hại (ếch nhái, rắn,…) để diệt trừ. Đồng thời quan sát hoạt động của cá (ăn mạnh hay yếu, có bị thiếu oxy hay không,…) để xử lý kịp thời.
- Giảm mật độ cá: sau khi ương cá sặc rằn khoảng 1 tháng, cá đã lớn, ao không còn đủ sức chứa hết lượng cá con. Cần phải san thưa sang ao khác để giảm mật độ. Thông thường từ 1 ao ban đầu cần thêm 1 ao nữa để đưa cá bột qua nuôi. Có như vậy thì cá mới tiếp tục lớn và khoẻ mạnh. Ao thứ hai dùng để san cá qua, cũng cần được chuẩn bị như ao lần đầu tiên để thả cá bột (tát cạn bón vôi).
5. Luyện cá trước khi xuất ao: Trước khi đưa cá xuất bán ra khỏi ao, cần được luyện trước 1 tuần bằng cách hàng ngày lội xuống ao xua đuổi cá, mỗi ngày 1 lần trong 1 tuần.
V. KỸ THUẬT NUÔI CÁ THƯƠNG PHẨM
1. Kỹ thuật nuôi ao
a. Điều kiện ao nuôi
* Diện tích: 200 – 1000 m 2 , có thể nuôi ở diện tích lớn hơn tùy theo từng hộ nuôi.
* Độ sâu từ 1 – 1,5 m.
* Ao gần nơi có nguồn nước sạch và có cống cấp thoát nước chủ động.
* Bờ ao phải cao hơn mực nước lũ cao nhất là 0,5 m và cải tạo ao.
b. Cải tạo ao
* Tát cạn sên vét bùn đáy ao chỉ còn lại 10 – 20 cm.
* Bón vôi 7 – 10 kg/100 m 2 .
* Phơi nắng 2 – 3 ngày.
* Bón phân chuồng ủ hoai 30 – 40 kg/100 m 2 ao.
* Lấy nước vào 30 – 40 cm.
* Sau 2 – 3 ngày cho phân chuồng phân hủy rồi lấy nước vào cho đủ rồi thả cá.
c. Cá giống
* Mật độ thả 15 – 20 con/m 2
* Kích cỡ cá 4 – 6 cm/con
* Cá khỏe không xây xát, không dị hình, đồng cỡ.
* Thả cá vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát để tránh sốc nhiệt độ.
d. Thức ăn
* Cho cá sặc rằn ăn gồm: cám, bột cá (loại cá tươi hoặc phụ phẩm của nhà máy) xay nhỏ cho cá ăn.
* Thành phần: cám 60% + bột cá 40%.
* Khẩu phần thức ăn : 5 – 7% trọng lượng cá/ngày.
* Làm sàn thả thức ăn để dễ kiểm tra lượng thức ăn hàng ngày.
* Cho ăn ngày 2 lần.
* Có thể bón phân chuồng bổ sung 2 tuần/lần 30 – 40 kg/100 m 2 ao để tăng thức ăn tự nhiên cho cá.
* Hàng ngày kiểm tra hoạt động của cá.
* Sau 8 – 10 tháng cá đạt trọng lượng 100 – 150 g/con thì có thể thu hoạch được.
2. Kỹ thuật nuôi trong ruộng lúa
a. Chuẩn bị ruộng
* Chọn ruộng có bờ bao cao hơn đỉnh lũ 0,5 m.
* Có diện tích mương bao 10 – 15% diện tích ruộng.
* Mương bao có bề ngang 2 –3 m sâu 1 – 1,5 m chạy dài xung quanh ruộng.
* Có vị trí gần kênh rạch để cấp thoát nước.
b. Cải tạo (như cải tạo ao)
c. Cá giống
* Mật độ thả 2 – 3 con/m 2
* Kích cỡ cá giống 4 – 6 cm/con
* Cá khỏe không xây xát, không dị hình, đồng cỡ.
* Thả cá vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát.
* Cá giống được thả ở mương bao sau đó cho nước ngập ruộng để cá tự kiếm ăn thêm.
d. Thức ăn gồm
* Cám + bột cá
* Ngày cho ăn 2 lần
* Lượng thức ăn 5 – 7% trọng lượng cá/ngày.
* Có thể 2 tuần/lần bón 20 – 30 kg phân chuồng, vừa làm thức ăn cho cá vừa giúp lúa phát triển tốt.
* Hàng ngày kiểm tra hoạt động của cá.
* Sau 8 – 10 tháng nuôi cá đạt cỡ 80 – 120 g/con có thể thu hoạch được.
VI. MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP
1. Bệnh đốm trắng (bệnh trùng quả dưa)
- Nguyên nhân bệnh là do trùng quả dưa. Có hai giai đoạn trong chu kỳ sống của trùng quả dưa, đầu tiên là giai đoạn trưởng thành, kế đến là giai đoạn ấu trùng. Trong giai đoạn trưởng thành trùng quả dưa được nhìn thấy dưới da hoặc mang cá có thể nhìn thấy như những đốm trắng bằng mắt thường.
Khi trùng quả dưa trưởng thành, chúng sẽ tách ra khỏi da cá và sinh sản bằng cách phân chia tế bào bên trong vách dày của tế bào. Khi chúng trưởng thành tế bào sẽ bị vỡ và những ấu trùng sẽ thoát vào môi trường nuôi, ấu trùng sẽ lội trong nước và sẽ tấn công vào da hoặc mang của ký chủ (cá) trong vòng 24 giờ. Sự tấn công của ấu trùng đôi khi phá vỡ mô của cá và chính vì điều này làm cho cá bột trở nên yếu đi và chết đột ngột. Đối với cá bột nhiễm bệnh vây sẽ rách tơi và cơ thể nhợt nhạt. Nếu việc điều trị không thích hợp và kịp thời thì cả đàn cá bột trong ao ương sẽ chết trong 2 – 3 ngày.
- Dấu hiệu bệnh lý: trong giai đoạn đầu của bệnh sẽ xuất hiện những đốm màu trắng bằng đầu kim hoặc nhỏ hơn trên thân cá. Sau xuất hiện các đốm trắng trên da cá và vây cá bị tua ra. Cá bột bơi lội chậm chạp và tỷ lệ chết cao.
- Cách phòng trị: để trị bệnh này có kết quả tốt cần phải điều trị thành nhiều đợt nối tiếp nhau. Nhìn chung có thể dùng 25 ml Formol trong 1 m3 nước ao, trị 3 lần cách nhau 3 ngày 1 lần thì sẽ có hiệu quả. Sau mỗi lần điều trị nước trong ao sẽ không được thay trong suốt 40 giờ, do đó trong thời gian trị liệu số lượng Moina (trứng nước) hoặc những thức ăn khác của cá bột sẽ phải giảm để ngăn chặn sự ô nhiễm nước. Lịch điều trị sẽ như sau :
+ Ngày 1 : tắm Formol cho cá 1 lần.
+ Ngày 3 : thay khoảng 75% nước ao và tắm Formol lần 2.
+ Ngày 6: thay 20 – 25% lượng nước và tắm Formol lần 3 và giữ nguyên trong 2 ngày.
+ Ngày 8 : sau 8 ngày cá bột sẽ khỏe mạnh và không cần tiếp tục điều trị nữa.
Cần chú ý rằng bệnh đốm trắng có thể lây lan rất nhanh sang các ao khác. Vì thế các ao lân cận nhiễm bệnh cũng phải được điều trị với liều lượng 25 ppm formol cùng lúc với ao bệnh. Đồng thời những ống dẫn nước, lưới kéo và vợt cũng cần phải tẩy trùng bằng cách ngâm vào dung dịch 200 ppm Formol (tức 20 ml Formol trong 100 lít nước) ít nhất 1 giờ, sau đó xả nước lại và phơi nắng.
2. Bệnh trùng bánh xe
Thường gây bệnh trên nhiều loài cá khác nhau: trê, basa, tai tượng, chép, mè, trôi, lóc bông,… gây thiệt hại lớn ở giai đoạn cá hương, cá giống. Bệnh thường xảy ra ở các bể, ao ương với mật độ dày và môi trường nuôi quá dơ bẩn. Ở ĐBSCL trùng mặt trời hầu như phát triển quanh năm nhưng cao điểm vào mùa nắng.
- Dấu hiệu bệnh lý: khi cá nhiễm trùng mặt trời, trên thân cá có lớp màu hơi trắng đục, da cá sậm lại, mang cá nhợt nhạt, cá giảm ăn và nổi đầu từng đàn trên mặt nước. Ở cá trê giống bị nhiễm bệnh này các vây cá bị rách tơi và râu cá bị cong nên còn gọi là bệnh “quéo râu”.
- Cách phòng trị: đây là bệnh ngoại ký sinh, do đó tùy vào điều kiện thực tế có thể dùng một trong những loại hóa chất sau đây để xử lý cá bệnh:
+ Khi ương cá con dưới ao nhiễm bệnh này, tốt nhất nên dùng Sulfat đồng (phèn xanh) phun khắp ao với liều lượng 0,3 – 0,5 g/m 3 nước ao trị 2 – 3 lần, mỗi lần cách nhau 1 ngày. Khi sử dụng phèn xanh cần tính chính xác thể tích nước ao.
+ Để trị cá bị trùng mặt trời ương trên bể xi măng nên dùng xanh Malachite với nồng độ 1 – 2 g/m3 nước bể, tắm cho cá trong thời gian 30 phút (đã bị cấm sử dụng) hoặc dùng Formol với liều lượng 25 ml/m 3 bể. Trị 3 ngày liên tục. Nên trị bệnh cá lúc mát trời và trong thời gian trị bệnh nên giảm lượng thức ăn đi một nửa.
Biện pháp tốt nhất để phòng bệnh trùng mặt trời là giữ gìn vệ sinh bể ương sạch sẽ, mật độ ương vừa phải, tránh thức ăn dư thừa ở đáy ao. Trước khi ương nuôi cá phải tẩy vôi, diệt mầm bệnh.