Mô hình nuôi tôm sinh thái ở đồng bằng sông Cửu Long 

Được đăng : 13-12-2016 16:26:19
I. MỞ ĐẦUTrong mấy năm gần đây, nghề nuôi tôm mặn lợ ở các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) phát triển rất nhanh. Trước năm 2000, diện tích nuôi tôm của khu vực chỉ khoảng 200.000ha, hiện nay diện tích này đã lên khoảng 450.000ha. Diện tích nuôi tôm công nghiệp cũng gia tăng đáng kể, tại hai tỉnh Bạc Liêu và Sóc Trăng đạt trên 10.000ha. Chính vì vậy, môi trường nước nuôi trồng thủy sản bị ô nhiễm ngày càng nhiều. Qua các đợt khảo sát cho thấy, môi trường nước ở một số tỉnh của khu vực Nam sông Hậu có hiện tượng ô nhiễm hữu cơ. Tôm nuôi bị bệnh và chết, gây tổn thất lớn cho người nuôi tôm.Ðể việc nuôi tôm sinh thái vừa tạo ra sản phẩm tôm sạch, vừa không làm ô nhiễm môi trường nuôi, giúp cho nghề nuôi tôm phát triển một cách bền vững, Viện Nghiên cứu NTTS II đã tiến hành nghiên cứu đề tài Mô hình nuôi tôm sinh thái ở ÐBSCL. Ðề tài được thực hiện từ tháng 6/2004 - 6/2006.Dựa vào điều kiện tự nhiên và hiện trạng nuôi tôm ở các tỉnh ÐBSCL, nuôi tôm sinh thái được nghiên cứu xây dựng theo các mô hình sau :- Nuôi tôm sinh thái trong ruộng lúa.- Nuôi tôm sinh thái trong đầm nuôi..

I. MỞ ĐẦU
Trong mấy năm gần đây, nghề nuôi tôm mặn lợ ở các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) phát triển rất nhanh. Trước năm 2000, diện tích nuôi tôm của khu vực chỉ khoảng 200.000ha, hiện nay diện tích này đã lên khoảng 450.000ha. Diện tích nuôi tôm công nghiệp cũng gia tăng đáng kể, tại hai tỉnh Bạc Liêu và Sóc Trăng đạt trên 10.000ha. Chính vì vậy, môi trường nước nuôi trồng thủy sản bị ô nhiễm ngày càng nhiều. Qua các đợt khảo sát cho thấy, môi trường nước ở một số tỉnh của khu vực Nam sông Hậu có hiện tượng ô nhiễm hữu cơ. Tôm nuôi bị bệnh và chết, gây tổn thất lớn cho người nuôi tôm.
Ðể việc nuôi tôm sinh thái vừa tạo ra sản phẩm tôm sạch, vừa không làm ô nhiễm môi trường nuôi, giúp cho nghề nuôi tôm phát triển một cách bền vững, Viện Nghiên cứu NTTS II đã tiến hành nghiên cứu đề tài Mô hình nuôi tôm sinh thái ở ÐBSCL. Ðề tài được thực hiện từ tháng 6/2004 - 6/2006.
Dựa vào điều kiện tự nhiên và hiện trạng nuôi tôm ở các tỉnh ÐBSCL, nuôi tôm sinh thái được nghiên cứu xây dựng theo các mô hình sau :
- Nuôi tôm sinh thái trong ruộng lúa.
- Nuôi tôm sinh thái trong đầm nuôi quảng canh gồm đất rừng và đất vùng chuyển đổi từ nông nghiệp.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Bố trí thí nghiệm
Xây dựng 8 điểm nuôi ở các vùng khác nhau, trong đó có 4 điểm tôm lúa và 4 điểm tôm đầm quảng canh.
1.1. Các điểm nuôi tôm lúa
- Hai điểm tôm lúa ở vùng sinh thái nội đồng, điều kiện môi trường nước có độ mặn không cao trong mùa khô và hoàn toàn ngọt trong mùa mưa tại thị trấn Phước Long, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu, chịu ảnh hưởng triều biển Ðông và Tây. (Ðiểm 1 có diện tích 1,7ha và Ðiểm 2 có diện tích 2,5ha).
- Hai điểm tôm lúa ở vùng sinh thái nội đồng, điều kiện môi trường nước có độ mặn cao trong mùa khô và ngọt trong mùa mưa, chịu ảnh hưởng triều biển Ðông và Tây. (Ðiểm 3 có diện tích 2 ha ở xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau và điểm 4 có diện tích 2 ha ở xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau).
1.2. Các điểm nuôi đầm quảng canh
- Hai điểm nuôi đầm quảng canh ở Bạc Liêu ở vùng đất sinh thái chuyển đổi từ nông nghiệp có độ mặn cao trong mùa khô và rất thấp trong mùa mưa ở xã An Trạch, huyện Ðông Hải, tỉnh Bạc Liêu. (Ðiểm 1 : diện tích 2 ha. Ðiểm 2 : diện tích 2 ha).
- Hai điểm nuôi đầm quảng canh ở tỉnh Cà Mau, đất có nguồn gốc tôm rừng. Ðộ mặn cao trong mùa khô và lợ trong mùa mưa. (Ðiểm 3 có diện tích 2 ha ở xã Hàm Rồng, huyện Năm Căn, chịu ảnh hưởng triều biển Ðông và điểm 4 có diện tích 2 ha ở xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời, chịu ảnh hưởng triều biển Tây).
2. Giải pháp kỹ thuật nuôi tôm
2.1. Thiết kế đầm ruộng nuôi
Ðầm và ruộng nuôi (hình dạng tùy theo điều kiện có sẵn) mương bao quanh rộng 3m, sâu 6-7dm với mô hình nuôi tôm lúa và đầm quảng canh và mương rộng 5-10m, sâu 1m với mô hình nuôi tôm quảng canh đất rừng. Ðầm nuôi có diện tích đầm lắng để bổ sung nước trong quá trình nuôi. Ðầm lắng chiếm khoảng 10-20% tổng diện tích nuôi. Tuy nhiên, đầm nuôi tôm quảng canh ở đất rừng khó giữ nước nên phải thường xuyên lấy và thay nước.
2.2. Kỹ thuật nuôi
vuông, đầm được làm vệ sinh trước vụ nuôi, bón vôi (20-100kg/1.000m2), dùng thuốc để diệt cá dữ còn sót trong vuông, đầm (1kg/50m3 nước). Sử dụng phân hữu cơ (ba lá xanh) bón lót gây màu (50-100kg/ha) ở các điểm nuôi tôm lúa và đầm quảng canh đất lúa. Lấy nước vào vuông đầm qua lưới lọc hoặc túi lọc (khi sử dụng bơm).
2.3. Thả giống
Thả giống với mật độ thả 2,5con/m2 - 3con/m2 ở mô hình tôm lúa và ở đầm quảng canh. Trong mô hình tôm lúa thả giống 2 lần, trong mô hình tôm đầm quảng canh thả giống 3 lần trong 1 vụ nuôi. Thời gian thả giống cách nhau 1 - 2 tháng.
2.4. Theo dõi các chỉ tiêu môi trường
- Ðo định kỳ hằng tháng các yếu tố môi trường gây ô nhiễm NH3, PO4, COD và chất rắn lơ lửng để có giải pháp làm sạch môi trường.
- Ðo hằng ngày các yếu tố môi trường nuôi thủy sản pH, nhiệt độ, độ trong và độ mặn.
- Thu mẫu kiểm tra định kỳ hằng tháng thực vật phù du để có giải pháp về thức ăn tự nhiên.
- Theo dõi tăng trưởng của tôm và tỷ lệ sống khi thu hoạch.