Quýt 

Được đăng : 13-12-2016 12:32:35
Là giống cây có múi trồng nhiều nhất ở Việt Nam, tập trung ở miền Nam. Giá trị của quýt hàng hóa tăng vượt do màu sắc trái cây "bắt mắt" có vị ngọt mát hấp dẫn, lượng sinh tố dồi dào, hàm lượng vitamin cao hơn hẳn so với các loại trái cây khác. bên cạnh đó cây còn có nhiều dược tính chữa bệnh.Quýt là loại cây dễ trồng và hầu như khắp mọi nơi, Quýt còn được chưng trong mâm ngũ quả ngàt Tết của nước ta hay được trồng trong chậu trang trí thể hiện sự phồn vinh thịnh vượng. THÔNG SỐ KỸ THUẬT1. Nguồn gốc--------------------------------------------------------------------------------Chi Cam chanh (Citrus) là một chi thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương (Rutaceae), có nguồn gốc từ khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới ở đông nam châu Á2. Những đặc tính chủ yếu:--------------------------------------------------------------------------------Cây quít là một cây nhỏ, lá mọc so le, mép có răng cưa nhỏ mau, lá nhẵn thơm, vỏ cây cũng có mùi thơm. Hoa nhỏ màu trắng, mọc đơn độc ở kẽ lá. Quả hình cầu, hai đầu dẹt, khi chín màu vàng cam đỏ, vỏ mọng, nhẵn bóng, hơi lồi lõm dễ bóc, trong có những múi xếp hình nan hoa bánh xe. Khi chín ăn ngọt ngon.Trong múi có chứa nhiều hạt.Ta phân thành nhiều loài quít (chua, hôi hay ngọt) nhưng vỏ quả đều dùng làm thuốc được.3. Các giống và vùng trồng:--------------------------------------------------------------------------------Quít đường: Tán cây trung bình, trái hơi dẹp hai đầu, vỏ mỏng dễ bóc, múi rời dễ tách, vỏ trái màu vàng xanh, láng, thịt trái màu cam, mềm: có nhiều nước, vị ngọt, thơm, trọng lượng trái trung bình 170 g.Quít tiều: Vỏ màu cam đậm, bề mặt vỏ láng, nổi múi khá rõ. Trái hình cầu, dẹp hai đầu, vỏ rất dễ bóc, thịt trái màu cam đậm, mềm, vị hơi chua hơn quít đường, khá nhiều nước, ít hạt. Trọng lượng trái trung bình 180 g.Cây quít được trồng khắp nơi ở nước ta, nhất là các vùng Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng Ninh, Nam Hà, Thái Bình, Phú Thọ, Bắc Giang, Thái Nguyên, Hà Nội…Trồng bằng chiết cành hay bằng hạt.4. Giá trị dinh dưỡng và ý nghĩa kinh..

Là giống cây có múi trồng nhiều nhất ở Việt Nam, tập trung ở miền Nam. Giá trị của quýt hàng hóa tăng vượt do màu sắc trái cây "bắt mắt" có vị ngọt mát hấp dẫn, lượng sinh tố dồi dào, hàm lượng vitamin cao hơn hẳn so với các loại trái cây khác. bên cạnh đó cây còn có nhiều dược tính chữa bệnh.
Quýt là loại cây dễ trồng và hầu như khắp mọi nơi, Quýt còn được chưng trong mâm ngũ quả ngàt Tết của nước ta hay được trồng trong chậu trang trí thể hiện sự phồn vinh thịnh vượng.
THÔNG SỐ KỸ THUẬT
1. Nguồn gốc
--------------------------------------------------------------------------------
Chi Cam chanh (Citrus) là một chi thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương (Rutaceae), có nguồn gốc từ khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới ở đông nam châu Á
2. Những đặc tính chủ yếu:
--------------------------------------------------------------------------------
Cây quít là một cây nhỏ, lá mọc so le, mép có răng cưa nhỏ mau, lá nhẵn thơm, vỏ cây cũng có mùi thơm. Hoa nhỏ màu trắng, mọc đơn độc ở kẽ lá. Quả hình cầu, hai đầu dẹt, khi chín màu vàng cam đỏ, vỏ mọng, nhẵn bóng, hơi lồi lõm dễ bóc, trong có những múi xếp hình nan hoa bánh xe. Khi chín ăn ngọt ngon.Trong múi có chứa nhiều hạt.
Ta phân thành nhiều loài quít (chua, hôi hay ngọt) nhưng vỏ quả đều dùng làm thuốc được.
3. Các giống và vùng trồng:
--------------------------------------------------------------------------------
Quít đường: Tán cây trung bình, trái hơi dẹp hai đầu, vỏ mỏng dễ bóc, múi rời dễ tách, vỏ trái màu vàng xanh, láng, thịt trái màu cam, mềm: có nhiều nước, vị ngọt, thơm, trọng lượng trái trung bình 170 g.
Quít tiều: Vỏ màu cam đậm, bề mặt vỏ láng, nổi múi khá rõ. Trái hình cầu, dẹp hai đầu, vỏ rất dễ bóc, thịt trái màu cam đậm, mềm, vị hơi chua hơn quít đường, khá nhiều nước, ít hạt. Trọng lượng trái trung bình 180 g.
Cây quít được trồng khắp nơi ở nước ta, nhất là các vùng Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng Ninh, Nam Hà, Thái Bình, Phú Thọ, Bắc Giang, Thái Nguyên, Hà Nội…Trồng bằng chiết cành hay bằng hạt.
4. Giá trị dinh dưỡng và ý nghĩa kinh tế
--------------------------------------------------------------------------------
Quít thường lột vỏ và ăn lúc còn tươi, hay vắt lấy nước; Một số bộ phận được dùng làm thuốc:
Bộ phận dùng:
* Quả quít non cắt đôi (Fructus Citri deliciasae immaturus) phơi khô gọi là Thanh bì.
Thanh bì đã được ghi vào Dược điển Việt Nam (1983) và Dược điển Trung Quốc (1963).
* Vỏ quả quít chín (Pericarpeum Citri deliciosae) phơi khô để lâu năm gọi là Trần bì.
Trần bì đã được ghi vào Dược điển Việt Nam (1983) và Dược điển Trung Quốc(1963), (1977).
* Hạt quả quít chín (Semen Citri deliciosae) phơi khô gọi là Quất hạch.
Đã được ghi vào Dược điển Trung Quốc (1963), (1997).
5. Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh:
--------------------------------------------------------------------------------
Nhiệt độ: Cây có múi (cam, quít, bưởi) có thể sống và phát triển được trong khoảng nhiệt độ 13 – 38oC, thích hợp nhất là 23 – 29oC. Dưới 13oC cây ngừng sinh trưởng, dưới âm 5oC cây sẽ bị chết.
Ánh sáng: Cây có múi không thích hợp với ánh sáng trực tiếp, cường độ ánh sáng thích hợp nhất cho cam quít khoảng 10.000 – 15.000 lux (tương đương với ánh sáng lúc 8 giờ sáng và 4 – 5 giờ chiều trong mùa nắng).
Nước: Cây có múi có nhu cầu về nước rất lớn, nhất là trong thời kỳ cây ra hoa và phát triển trái. Mặt khác, cây có múi cũng rất mẫn cảm với điều kiện ngập nước. Trong mùa mưa, nếu mực nước ngầm trong đất cao và không thoát nước kịp, cây sẽ bị thối rễ, vàng lá và chết.
Đất đai: Cam, quít, bưởi thích hợp với các loại đất có tầng canh tác dày từ 0,5 – 1 m, đất thịt pha, màu mỡ, thoát nước tốt, thoáng khí, pH từ 5 – 7.
6. Nhân giống:
--------------------------------------------------------------------------------
Chủ yếu bằng phương pháp ghép (gốc ghép thường là bưởi dại, bưởi chua). Dùng cách ghép mắt chử “T” hoặc cửa sổ ghép mắt nhỏ có gỗ, ngoài ra có thể nhân giống bằng phương pháp chiếc cành.
Thời vụ trồng
Miền Bắc: Vụ xuân và vụ thu (cây ghép vào vụ thu năm trước trồng vào vụ xuân năm sau tỷ lệ sống cao hơn).
Miền Nam: Trồng vào các tháng 4-5 (đầu mùa mưa).
7. Cách trồng:
--------------------------------------------------------------------------------
Dùng đất tốt như đất mặt ruộng, đất bãi bồi ven sông ... để đắp mô. Mô có hình tròn, đường kính 0,6 – 0,8 m; cao 0,3 – 0,5 m. Đất đắp mô có thể trộn tro trấu, phân chuồng hoai mục, xử lý đất bằng Furadan để trừ côn trùng và vôi để ngừa bệnh.
Cam mật, quít, chanh: 4 x 4 m
Có thể trồng dày hơn để khai thác trong những năm đầu, khi cây giao tán thì tiến hành đốn tỉa.
8. Chăm sóc
--------------------------------------------------------------------------------
Tỉa cành: Cần mạnh dạn tỉa cành giúp cho vườn thông thoáng.
Bón phân hữu cơ: Hàng năm cần bón phân hữu cơ hoai cho cây, có thể bón thêm vôi.
Giữ cỏ trong vườn: Trồng cỏ có rễ ăn cạn, khống chế cỏ bằng cách xén trên mặt, không đào cả rễ.
Không bón phân, tưới nước, bôi bùn non vào gốc cây. Nên giữ cỏ, rác cách gốc 20 – 30cm.
Đầu mùa mưa dùng vôi pha phèn xanh hoặc Copper Zine quét vào gốc cây, cành cây.
Phun thuốc ngừa sâu bệnh vào giai đoạn cây ra đọt non và trái non.
Phát hiện sớm cây bị bệnh vàng lá Greening và nhanh chóng loại bỏ, đồng thời phun xịt thuốc trừ rầy chổng cánh khi cây đâm tược non.
9. Phòng trừ sâu bệnh:
--------------------------------------------------------------------------------
Sâu vẽ bùa: Phát triển mạnh ở giai đoạn cây ra lá non, sâu rất nhỏ, đục dưới biểu bì lá tạo thành những đường ngoằn nghèo. Sự phá hại của sâu làm lá co rúm, biến dạng, quăn queo và các vết thương do sâu tạo trên lá, chồi tạo điều kiện cho bệnh loét phát triển.
Rầy mềm: Thường chích hút ở chồi ngọn, làm cho chồi và lá non không phát triển được, co rúm lại, đồng thời tạo điều kiện cho nấm bồ hóng cộng sinh và phát triển. Rầy mềm còn là môi giớùi truyền bệnh Tristeza.
Bệnh Tristeza có triệu chứng rõ rệt nhất trên cây chanh là loại cây có múi mẫn cảm nhất: cây lùn, trái nhỏ, lá nhỏ, hơi cong giống hình muỗng, gân lá sưng, soi lá đối diện với ánh nắng thì thấy gân trong, bóc vỏ thân cây thì thấy bị rỗ (có những lỗ nhỏ như những cái gai ấn sâu vào thân cây).
Rầy chổng cánh: Đây là đối tượng rất nguy hiểm. Rầy chổng cánh thường chích hút nhựa lá non, đọt non và làm lây bệnh vàng lá Greening.
Nhện đỏ: Cả ấu trùng và thành trùng đều rất nhỏ màu nâu, vàng lợt hoặc trắng trong tùy loại, thường bu chích hút bên ngoài vỏ trái non (1 – 2 tháng tuổi) làm cho vỏ trái như phủ cám nên thường gọi là trái da cám, làm giảm giá trị của trái thương phẩm.
Bệnh loét: Bệnh do vi khuẩn gây ra, bệnh gây hại trên cả lá, trái, cành cây, vết bệnh lúc đầu nhỏ, sủng nước màu xanh đậm, sau biến thành màu nâu nhạt mọc nhô lên mặt lá hay vỏ trái. Xung quanh vết bệnh có quầng vàng. Trên trái non và trên cành vết bệnh có thể ăn sâu 1 – 3mm và làm trái dễ bị rụng, nếu trái không rụng cũng bị mất giá. Bệnh thường gây hại nặng trong mùa mưa.
Bệnh thối gốc chảy mủ: Do nấm gây ra, bệnh làm thối vỏ thân ở gốc kể cả rễ cạn bên trên, có chảy mủ hôi – khi cây bệnh đưa đến ít rễ, rễ ngắn, vỏ rễ thối rất dễ tuột, lá vàng. Nấm cũng có thể tấn công trên trái, nhất là trái ở gần mặt đất.
Bệnh vàng lá gân xanh (Greening): Là bệnh gây hại nghiêm trọng nhất. Cây bị chết có lá vàng lốm đốm nhưng gân xanh, lồi, trái nhỏ, méo mó. Khi chẻ dọc trái ta thấy trái bị lệch tâm, hạt bị thui.
Bệnh ghẻ lồi: Do nấm gây hại trên cả lá và trái. Bệnh thường tấn công vào giai đoạn cây ra đọt non, trái non. Lá, trái bị bệnh sần sùi nên bán mất giá.
10. Thu họach và bảo quản:
--------------------------------------------------------------------------------
Quả quýt cần được thu hái kịp thời khi trên vỏ quả xuất hiện màu chín (đỏ da cam hoặc vàng da cam) ở 1/3-1/4 diện tích vỏ quả. Không nên để quả chín lâu trên cây, vì có thể dẫn đến hiện tượng xốp quả. Cần tiến hành thu hái vào những ngày trời nắng ráo. dùng kéo mũi bằng và có lò xo để cắt sát cuống quả, không nên cầm tay vặt quả. Tránh làm sây sát vỏ quả khi thu hái.
Quả sau khi thu hoạch được đưa vào lán trại để phân loại, lau sạch vỏ quả, xử lý chất hoặc bao giấy trước khi vận chuyển đến nơi bảo quản và tiêu thụ.