Rau hẹ, vị thuốc tiện dụng và rẻ tiền
Được đăng : 13-12-2016 16:26:17
Rau hẹ có tên Hán ngữ là cửu thái, khởi dương thảo và nhiều tên khác. Tên khoa học là Allium odorum L. Họ hành, Alliaceae. Hẹ là loại rau được dùng nhiều trong các món ăn. Ngoài ra người ta còn dùng hẹ như hành tỏi để chữa nhiều bệnh từ thông thường đến phức tạp.Tác dụng dược lý của hẹ theo quan điểm Ðông yHẹ là thức ăn - vị thuốc đắc dụng vào mùa xuân. Vào thời điểm này, chất lượng làm thuốc của hẹ cao hơn. Sách Nội kinh có viết: "Xuân hạ dưỡng dương", nghĩa là mùa xuân cần ăn các món ôn bổ dương khí. Hẹ nằm trong nhóm thức ăn đó. Còn Bản thảo thập di viết: "Rau hẹ là ấm nhất, có ích cho người, nên ăn thường xuyên". Tổng hợp các sách Ðông y cho thấy lá hẹ vị cay hơi chua, hăng, tính ấm, có tác dụng trợ thận, bổ dương, ôn trung, hành khí, tán huyết, giải độc, cầm máu, tiêu đờm. Sách Lễ ký viết củ hẹ trị chứng di mộng tinh, đau lưng rất thần hiệu. Hẹ kỵ mật ong và thịt trâu. Không dùng lâu dài và với những người bị các chứng âm hư hỏa vượng, vị hư có nhiệt.Theo Tây y1kg hẹ có 5-10g đạm, 5-30g đường, 20mg vitamin A, 89g vitamin C, 263mg canxi, 212mg photpho, nhiều chất xơ.Nếu ăn 86g hẹ sẽ được 1,9g protid, 5,1g glucid và 25 calo. Chất xơ có tác dụng tăng tính nhạy cảm với insulin làm giảm đường huyết, giảm mỡ máu, ngừa xơ mỡ động mạch, bảo vệ tuyến tụy. Chất Odorin là một kháng sinh mạnh chống tụ cầu và các vi khuẩn khác.Sau đây là một số bài thuốc chủ yếu của hẹ- Chữa bé ho khò khè: Lá hẹ hấp cơm lấy nước cho bé uống.- Trị rôm sẩy: Rễ hẹ 60g sắc nước uống.- Chữa cảm mạo, ho (do lạnh): Hẹ 250g, gừng tươi 25g, cho thêm ít đường hấp chín, ăn cái, uống nước.- Táo bón: Hạt rau hẹ rang vàng, giã nhỏ. Mỗi lần uống 5g. Hòa nước sôi uống ngày 3 lần.* Bánh nhân hẹ: Rau hẹ 200g, đậu phụ 100g, bột mì 500g, miến 50g ngâm cắt vụn, rau hẹ thái nhỏ, đậu thái quân cờ. Xào khô già với nước tương, muối, bột ngọt, hành, gừng, dầu vừng trộn đều viên làm nhân. Bột mì nhồi làm..
Rau hẹ có tên Hán ngữ là cửu thái, khởi dương thảo và nhiều tên khác. Tên khoa học là Allium odorum L. Họ hành, Alliaceae. Hẹ là loại rau được dùng nhiều trong các món ăn. Ngoài ra người ta còn dùng hẹ như hành tỏi để chữa nhiều bệnh từ thông thường đến phức tạp.
Tác dụng dược lý của hẹ theo quan điểm Ðông y
Hẹ là thức ăn - vị thuốc đắc dụng vào mùa xuân. Vào thời điểm này, chất lượng làm thuốc của hẹ cao hơn. Sách Nội kinh có viết: "Xuân hạ dưỡng dương", nghĩa là mùa xuân cần ăn các món ôn bổ dương khí. Hẹ nằm trong nhóm thức ăn đó. Còn Bản thảo thập di viết: "Rau hẹ là ấm nhất, có ích cho người, nên ăn thường xuyên". Tổng hợp các sách Ðông y cho thấy lá hẹ vị cay hơi chua, hăng, tính ấm, có tác dụng trợ thận, bổ dương, ôn trung, hành khí, tán huyết, giải độc, cầm máu, tiêu đờm. Sách Lễ ký viết củ hẹ trị chứng di mộng tinh, đau lưng rất thần hiệu. Hẹ kỵ mật ong và thịt trâu. Không dùng lâu dài và với những người bị các chứng âm hư hỏa vượng, vị hư có nhiệt.
Theo Tây y
1kg hẹ có 5-10g đạm, 5-30g đường, 20mg vitamin A, 89g vitamin C, 263mg canxi, 212mg photpho, nhiều chất xơ.
Nếu ăn 86g hẹ sẽ được 1,9g protid, 5,1g glucid và 25 calo. Chất xơ có tác dụng tăng tính nhạy cảm với insulin làm giảm đường huyết, giảm mỡ máu, ngừa xơ mỡ động mạch, bảo vệ tuyến tụy. Chất Odorin là một kháng sinh mạnh chống tụ cầu và các vi khuẩn khác.
Sau đây là một số bài thuốc chủ yếu của hẹ
- Chữa bé ho khò khè: Lá hẹ hấp cơm lấy nước cho bé uống.
- Trị rôm sẩy: Rễ hẹ 60g sắc nước uống.
- Chữa cảm mạo, ho (do lạnh): Hẹ 250g, gừng tươi 25g, cho thêm ít đường hấp chín, ăn cái, uống nước.
- Táo bón: Hạt rau hẹ rang vàng, giã nhỏ. Mỗi lần uống 5g. Hòa nước sôi uống ngày 3 lần.
* Bánh nhân hẹ: Rau hẹ 200g, đậu phụ 100g, bột mì 500g, miến 50g ngâm cắt vụn, rau hẹ thái nhỏ, đậu thái quân cờ. Xào khô già với nước tương, muối, bột ngọt, hành, gừng, dầu vừng trộn đều viên làm nhân. Bột mì nhồi làm viên rồi cán mỏng, bọc nhân chưng chín.
* Hẹ 200g cắt đoạn dài, xào với giá đậu xanh.
- Phòng táo bón, tích trệ: Hàng sáng dậy, chưa ăn sáng, uống nước hẹ giã đã lọc bã.
- Ðái dầm, tiêu chảy lâu ngày ở trẻ em: Nấu cháo rễ hẹ. Rễ hẹ tươi 25g, gạo 50g, rễ hẹ vắt lấy nước cho vào cháo đang sôi, thêm ít đường, ăn nóng, dùng liên tục trong 10 ngày.
- Nấc (do lạnh): Uống một bát nước hẹ giã nát đã lọc bã.
- Thổ tả: Cấp cứu bằng một nắm rau hẹ giã lấy nước cốt, chưng cách thủy cho uống.
- Ðau răng: Lấy 1 nắm hẹ (cả rễ) giã nhuyễn, đặt vào chỗ đau, đặt liên tục cho đến khi khỏi.
- Ðau họng: Lá và củ hẹ giã đắp lên cổ, băng lại, nhai củ cải, lá húng chanh và nuốt nước.
- Lên cơn suyễn (khó thở): Lá hẹ một nắm giã nát, lấy nước uống hay sắc lên để uống.
- Sơn ăn lở loét: Lá hẹ giã nát đắp lên chỗ tổn thương.
- Chữa ghẻ: Rau hẹ 50g, rau cần 30g, giã nát đắp lên chỗ tổn thương. Ngày 2 lần.
- Chữa giun kim: Rễ hẹ giã lấy nước cho uống.
- Thối tai (Viêm tai giữa): Lá hẹ 1 nắm rửa kỹ, giã nhuyễn lấy nước nhỏ vào tai cho đến khi khỏi. Còn dùng cho trường hợp kiến, muỗi bò vào tai.
- Trĩ sưng đau: 1 nắm to lá hẹ cho vào nồi đất với nước, dùng lá chuối bịt kín nồi, đun đến khi sôi thì nhấc xuống, chọc một lỗ thủng trên lá chuối cho hơi bay lên để xông trĩ. Khi thấy hết hơi bay lên thì đổ hẹ ra chậu ngâm rửa hậu môn.
Còn có cách giã nhuyễn lá hẹ cho vào chậu, rồi ngồi và để trực tiếp trĩ lên lá hẹ.
- Thoát giang (lòi dom): 1 nắm lá hẹ giã nhỏ trộn giấm, đảo nóng: Dùng 2 miếng vải sô sạch gói hẹ để thay nhau chườm và chấm hậu môn.
- Càng cua chín mé (nhiễm trùng sưng tấy đầu móng tay): Rau hẹ cả củ và rễ, giã nát xào rượu chườm, bó, băng lại. Thay băng nhiều lần.
- Chứng tâm hãn (mồ hôi ra không ngớt, chỉ khu trú ở vùng ngực): Dùng 49 cây hẹ cả gốc rửa sạch, đổ vào 2 bát nước, nấu còn 1 bát, uống liên tục nhiều ngày cho đến khi khỏi.
- Viêm loét dạ dày thể hàn, đau vùng thượng vị, buồn nôn hoặc nôn (do lạnh): Rau hẹ 250g, gừng tươi 25g. Tất cả thái vụn, giã nát, lọc lấy nước đổ vào nồi cùng với 250g sữa bò. Ðun nhỏ lửa cho đến khi sôi, uống nóng.
- Ðái tháo đường: Củ hẹ 150g, thịt sò 100g. Nấu chín, nêm gia vị. Ăn thường xuyên. Trường hợp ra mồ hôi trộm (âm hư tự hãn) dùng món này cũng tốt.
- Gan đọng mỡ ở người béo phì: Hải đới 100g ngâm nước cho nở, cắt sợi. Rau hẹ 200g cắt đoạn dài, cùng nhúng nước 5 phút vớt ra. Cho tỏi giã nhuyễn, giấm, dầu vừng, tương và ít đường trộn đều. Ăn hàng ngày và kéo dài trong một tháng.
- Lỵ amíp: Nấu canh hẹ cá giếc (ngày 1 con), ăn cái uống nước, dùng trong 1 tuần.
- Ung thư thực quản: Nên dùng nước rau hẹ pha với sữa.
- Bế kinh:
* Hạt rau hẹ 10g, hạt dành dành 10g, sắc nước uống ngày 2 lần.
* Rau hẹ 250g giã lấy nước hòa với đường đỏ, đun sôi để uống.
- Di mộng tinh, xuất tinh sớm, liệt dương: 0,5kg rau hẹ tươi giã lấy nước, uống ngày 2 lần trong một tuần.
* Rau hẹ xào tôm nõn tươi: Rau hẹ 200g, tôm nõn 200g, xào ăn với cơm.
* Rau hẹ xào gan dê: Rau hẹ 150g, gan dê 150g; Còn có tác dụng làm sáng mắt.
* Rau hẹ xào lươn: Lươn 500g lọc bỏ xương cắt đoạn xào qua, thêm gia vị, gừng, tỏi và nước, vừa cạn cho 300g rau hẹ cắt đoạn, xào thêm 5 phút. Ăn nóng.
* Cháo hẹ: Hẹ 20g, gạo 90g. Nấu cháo ăn nóng ngày 2 lần. Còn dùng chữa đau lưng, gối mỏi, ăn uống kém, phân sống nát, chân tay lạnh; Nữ giới bị đới hạ, lãnh cảm.
* Hẹ xào: Hẹ 240g, hồ đào nhục (quả óc chó) 60g. Xào với dầu vừng và ít muối. Ăn ngày 1 lần lúc đói hoặc vào bữa cơm trong 2 tuần đến 1 tháng. Còn dùng chữa táo bón, đau lưng, gối, tiểu tiện luôn, nữ giới bị khí hư, lãnh cảm.
* Cháo hạt rau hẹ: Hạt hẹ 15g, gạo tẻ 50g (hạt hẹ xào chín), ăn hàng ngày.
* Rau hẹ, cây tơ hồng xanh, ngũ vị tử, phúc bồn tử, câu kỷ tử, nữ trinh tử. Lượng bằng nhau. Phơi khô tán bột, mỗi lần uống 6g. Ngày uống 2 lần với nước ấm. Chữa đi tiểu nhiều lần.
* Rau hẹ 30g, phúc bồn tử 1,5g, dây tơ hồng xanh 20g. Sấy khô tán bột hoàn viên. Dùng mỗi lần 3g, ngày 3 lần.
* Cung đình hồi xuân tửu: Hạt hẹ 20g, câu kỷ 30g, ba kích 15g, hồng sâm 20g, lộc nhung lát 10g, đường phèn 200g, rượu trắng 200g. Ngâm ít nhất nửa tháng thì dùng được.
Trong các sách nói chung và Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh nói riêng còn có nhiều bài thuốc dùng hẹ, tuy nhiên vẫn có một số vấn đề khó hiểu chưa được kiểm chứng khoa học. Ví dụ: chữa đau ngực như dùi đâm, chó dại cắn, sản hậu bất tỉnh v.v...
Trong "Thiên kim tập ký" có kể lại chuyện: Thiên hoàng tự nhiên bị nấc suốt ngày. Các ngự y đã đến khám và sau đó thiên hoàng khỏi bệnh chỉ bằng bài thuốc dùng nước hẹ pha rượu hùng hoàng.
Qua một số trình bày trên, ta thấy cây hẹ có công dụng phòng chữa bệnh rất phong phú, vì vậy mỗi gia đình nên trồng một ít hẹ. Ở thành phố có thể trồng vào chậu hay thùng đất. Trồng hẹ rất dễ và ít phải chăm sóc, gieo 1 lần có thể thu hoạch nhiều lứa, cây phát triển quanh năm, vừa cho lá để ăn vừa có thể dùng làm thuốc những khi cần thiết.