Thanh long (Hylocereus)
Được đăng : 13-12-2016 12:32:34
Thanh long một loài cây được trồng làm cảnh hay lấy quả, là tên của một vài chi của họ xương rồng. Các hạt giống như hạt vừng đen nằm lẫn lộn trong ruột. Lớp cùi thịt trong ruột thường được ăn ở dạng quả tươi, có mùi vị thơm dịu, ngọt vừa phải và ít cung cấp calo. Hương vị của nó đôi khi giống như hương vị của quả kiwi (Actinidia deliciosa). Quả có thể chế biến thành nước quả hay rượu vang; hoa có thể ăn được hay ngâm vào nước giống như chè. Mặc dù các hạt bé tí xíu của chúng được ăn cùng với thịt của ruột quả nhưng chúng không bị tiêu hóa. THÔNG SỐ KỸ THUẬT1. Nguồn gốc:--------------------------------------------------------------------------------Người ta cho rằng nó có nguồn gốc từ Trung và Nam Mỹ. Nó cũng được trồng ở các nước như Trung Quốc, Đài Loan và trong khu vực Đông Nam Á như Việt Nam, Malaysia, Thái Lan, Philippines. Việc trồng loại ruột trắng vỏ đỏ hay hồng ở Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines v.v. là lấy giống từ Bình Thuận, Việt Nam và hiện nay (năm 2005) mới chỉ trong giai đoạn bắt đầu.2. Những đặc tính chủ yếu:--------------------------------------------------------------------------------Quả Thanh Long có ba dạng, tất cả đều có vỏ giống như da và có một chút lá. Chúng có tên gọi khoa học như sau:Hylocereus undatus thuộc chi Hylocereus, ruột trắng với vỏ hồng hay đỏ.Hylocereus polyrhizus thuộc chi Hylocereus, ruột đỏ với vỏ hồng hay đỏ.Selenicereus megalanthus thuộc chi Selenicereus, ruột trắng với vỏ vàng.3. Vùng trồng và các giống dứa thường trồng:--------------------------------------------------------------------------------Loại ruột đỏ, vỏ hồng lấy giống từ Đài Loan năm 1988, hiện nay mới trồng thử nghiệm tại Lạng Sơn và Phủ Quỳ (tỉnh Nghệ An). Loại ruột trắng vỏ hồng hay đỏ được trồng rộng rãi ở các tỉnh như Bình Thuận, Long An, Tiền Giang v.v.4. Giá trị dinh dưỡng và ý nghĩa kinh tế:--------------------------------------------------------------------------------Ngọt, thanh, và có cảm giác mát lạnh ở cổ họng, hương vị trái Thanh long hấp dẫn cả người lớn lẫn trẻ em. Khi bổ đôi, trái lấm tấm hột đen trông tưởng như hột e-é, chưa nếm đã bắt mắt rồi, nhất là đám con trẻ.Thanh Long có 3 loại, và hai loại quí hiếm là giống ruột màu vàng và màu đỏ. Thanh Long còn được bày trên đĩa trái cây cúng kiếng, trên bàn thờ, hay mâm ông Địa, đều đẹp trang nhã cả, nhất là dịp rằm tháng 7.5. Yêu cầu ngoại cảnh:--------------------------------------------------------------------------------- Thanh long ruột đỏ thích nghi với nơi có nhiều ánh sáng, dưới ánh sáng cao, độ đường tăng, nhiệt độ thích hợp từ 15 – 35°C, nếu dưới nhiệt độ đó cây sẽ phát triển chậm hoặc không sinh trưởng được. Do đó khi trồng cần tận dụng hướng Nam và đông Nam, nơi có đất đai bằng phẳng và ánh sáng nhiều. Là cây có tính chống hạn thích hợp với các loại đất ở trên núi đá hay bờ rào ở nông thôn và vùng ven biển, đất có tỷ lệ hạt dính 20%, hạt cát 40%, hạt đất 40% sẽ giúp cho cây hấp thụ dinh dưỡng, hàng tháng lượng mưa từ 50 – 100 mm cây sẽ sinh trưởng phát triển tốt.- Loại ruột trắng loại này được trồng phổ biến ở các tỉnh nam Trung Bộ và Nam Bộ nhưng thương hiệu nổi tiếng nhất là ở Bình..
Thanh long một loài cây được trồng làm cảnh hay lấy quả, là tên của một vài chi của họ xương rồng. Các hạt giống như hạt vừng đen nằm lẫn lộn trong ruột. Lớp cùi thịt trong ruột thường được ăn ở dạng quả tươi, có mùi vị thơm dịu, ngọt vừa phải và ít cung cấp calo. Hương vị của nó đôi khi giống như hương vị của quả kiwi (Actinidia deliciosa). Quả có thể chế biến thành nước quả hay rượu vang; hoa có thể ăn được hay ngâm vào nước giống như chè. Mặc dù các hạt bé tí xíu của chúng được ăn cùng với thịt của ruột quả nhưng chúng không bị tiêu hóa.
THÔNG SỐ KỸ THUẬT
1. Nguồn gốc:
--------------------------------------------------------------------------------
Người ta cho rằng nó có nguồn gốc từ Trung và Nam Mỹ. Nó cũng được trồng ở các nước như Trung Quốc, Đài Loan và trong khu vực Đông Nam Á như Việt Nam, Malaysia, Thái Lan, Philippines. Việc trồng loại ruột trắng vỏ đỏ hay hồng ở Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines v.v. là lấy giống từ Bình Thuận, Việt Nam và hiện nay (năm 2005) mới chỉ trong giai đoạn bắt đầu.
2. Những đặc tính chủ yếu:
--------------------------------------------------------------------------------
Quả Thanh Long có ba dạng, tất cả đều có vỏ giống như da và có một chút lá. Chúng có tên gọi khoa học như sau:
Hylocereus undatus thuộc chi Hylocereus, ruột trắng với vỏ hồng hay đỏ.
Hylocereus polyrhizus thuộc chi Hylocereus, ruột đỏ với vỏ hồng hay đỏ.
Selenicereus megalanthus thuộc chi Selenicereus, ruột trắng với vỏ vàng.
3. Vùng trồng và các giống dứa thường trồng:
--------------------------------------------------------------------------------
Loại ruột đỏ, vỏ hồng lấy giống từ Đài Loan năm 1988, hiện nay mới trồng thử nghiệm tại Lạng Sơn và Phủ Quỳ (tỉnh Nghệ An). Loại ruột trắng vỏ hồng hay đỏ được trồng rộng rãi ở các tỉnh như Bình Thuận, Long An, Tiền Giang v.v.
4. Giá trị dinh dưỡng và ý nghĩa kinh tế:
--------------------------------------------------------------------------------
Ngọt, thanh, và có cảm giác mát lạnh ở cổ họng, hương vị trái Thanh long hấp dẫn cả người lớn lẫn trẻ em. Khi bổ đôi, trái lấm tấm hột đen trông tưởng như hột e-é, chưa nếm đã bắt mắt rồi, nhất là đám con trẻ.Thanh Long có 3 loại, và hai loại quí hiếm là giống ruột màu vàng và màu đỏ. Thanh Long còn được bày trên đĩa trái cây cúng kiếng, trên bàn thờ, hay mâm ông Địa, đều đẹp trang nhã cả, nhất là dịp rằm tháng 7.
5. Yêu cầu ngoại cảnh:
--------------------------------------------------------------------------------
- Thanh long ruột đỏ thích nghi với nơi có nhiều ánh sáng, dưới ánh sáng cao, độ đường tăng, nhiệt độ thích hợp từ 15 – 35°C, nếu dưới nhiệt độ đó cây sẽ phát triển chậm hoặc không sinh trưởng được. Do đó khi trồng cần tận dụng hướng Nam và đông Nam, nơi có đất đai bằng phẳng và ánh sáng nhiều. Là cây có tính chống hạn thích hợp với các loại đất ở trên núi đá hay bờ rào ở nông thôn và vùng ven biển, đất có tỷ lệ hạt dính 20%, hạt cát 40%, hạt đất 40% sẽ giúp cho cây hấp thụ dinh dưỡng, hàng tháng lượng mưa từ 50 – 100 mm cây sẽ sinh trưởng phát triển tốt.
- Loại ruột trắng loại này được trồng phổ biến ở các tỉnh nam Trung Bộ và Nam Bộ nhưng thương hiệu nổi tiếng nhất là ở Bình Thuận (năm 2003 tỉnh này có 5.000 ha trồng thanh long và sản lượng 90.000 tấn quả, trị giá xuất khẩu 6 triệu USD). Loại thanh long này sinh trưởng và phát triển tốt ở những nơi có cường độ ánh sáng cao và toàn phần. Được trồng trên nhiều loại đất khác nhau như: đất xám bạc màu, đất phèn… nhưng muốn có năng suất cao, đất phải có tầng canh tác tối thiểu từ 30-50 cm.
6. Nhân giống:
--------------------------------------------------------------------------------
Nên chọn hom giống có tiêu chuẩn như sau:
Tuổi hom từ 6-24 tháng, chọn các cành có gốc cành bắt đầu hóa gỗ nhằm hạn chế bệnh thối cành khi đặt hom xuống đất.
Chiều dài hom từ 50-70cm
Hom khỏe, màu xanh đậm, không có vết sâu bệnh.
Các mắt mang chum gai phải tốt, mẩy, khả năng nẩy chồi tốt.
Sau khi chọn hom xong, hom được giâm nơi thoáng mát trên nền đất khoảng 10-15 ngày sẽ ra rễ để đem trồng. Cũng có thể đem hom trồng thẳng không qua giai đoạn giâm. Đặt hom cạn khoảng 3-5 cm, nên đặt phần đã hóa gỗ xuống đất để tránh thối gốc. Mỗi trụ đặt 3-4 hom. Đặt áp phần thẳng của hom vào trụ. Cột hom vào trụ để tránh gió làm lung lay hom khi rễ chưa bám vào đất. Vào mùa nắng nên ủ gốc bằng rơm rạ hoặc cỏ khô để giữ độ ẩm.
7. Trồng cây:
--------------------------------------------------------------------------------
Chuẩn bị trụ: Thanh long cần bám vào cây trụ, do đó phải chuẩn bị trụ trước khi đặt hom giống. Có thể dùng trụ bằng gỗ hay xi măng cốt thép. Tuy nhiên nếu dùng trụ xi măng cần chú ý vào mùa nắng trụ hấp thụ nhiệt rất mạnh, dễ làm đứt các rễ khí sinh của thanh long, nên dùng rơm rạ, lá chuối hoặc bao tải bao một lớp mỏng xung quanh trụ để giảm bớt hấp thụ nhiệt và tưới lên trụ vào sáng sớm hay chiều tối. Trồng trụ trước khi đặt hom 1 tháng, chiều cao trụ khoảng từ 1,7-2,2 m, phần chôn sâu từ 0,5-0,7 m, đường kính trụ 15-20 cm (trụ xi măng mỗi cạnh khoảng 12-15 cm). Trồng trụ thẳng, trên đầu trụ đóng thêm giá đỡ hình chữ thập (+) hoặc đóng nẹp 2 bên mép trụ giúp thanh long có chỗ bám trên đầu trụ, cành thanh long sẽ rũ xuống.
* Mật độ trồng: Mật độ trồng khoảng 700-1.000 trụ/ha, khoảng cách trồng 3 x 3 m hoặc 3 x 3,5 m. Có thể bố trí trồng xen các loại cây ngắn ngày khác nhưng phải đảm bảo cho thanh long nhận đầy đủ ánh sáng.
* Thời vụ trồng: Thường trồng vào tháng 10-11 dương lịch vì lúc này nguồn hom giống dồi dào do trùng với thời gian tỉa cành, lợi dụng ẩm độ cuối mùa mưa, tránh được ngập úng, tuy nhiên đến mùa khô cây chưa đủ sức chống chịu với nắng hạn cần phải tưới nước và giữ ẩm cho cây.
* Tỉa cành:
Sau khi trồng 7-10 ngày: chọn 1 chồi phát triển tốt nhất, bám chặt vào trụ để lại sao cho cành từ mặt đất đi thẳng tới đỉnh trụ.
Khi cành dài 30-40 cm: Tiến hành uốn cành nằm xuống đỉnh trụ. Nên uống vào lúc trưa nắng, lúc này cành mếm dễ uốn, mỗi ngày một ít cho đến khi cành nằm được trên đỉnh trụ, dùng dây nilon buộc lại. Biện pháp này giúp cành mau ra chồi mới.
Khi cành đâm chồi: Chọn 1-2 chồi phát triển tốt để lại.
Sau khi cây cho trái: Hết mùa thu hoạch trái, tỉa bỏ cành cũ bên trong tán, cắt ngang cành và cách gốc 30-40 cm nhằm làm giá đỡ cho cây. Cành vừa cho trái vụ trước nên để lại nuôi chồi mới (chỉ để lại 1 chồi trên cành mẹ) khi cành dài 1,2-1,5 m thì cắt đọt cành con tạo điều kiện cho cành mập và nhanh cho trái.
Bón phân (cho 1 trụ):
Thời kỳ 1-2 năm đầu: Bón lót: 15-20 kg phân chuồng hoai, 100 gam super lân cho một trụ. Bón thúc: 100 g urê + 100 g NPK 16-16-8 vào các giai đoạn 20-30 ngày sau khi trồng, sau đó 3 tháng bón 1 lần. Khi cây ra hoa có thể cấp thêm 50 g phân kali (KCl).
Thời kỳ từ năm thứ 3 trở đi: Chia làm 8 lần trong năm. Rải phân đều trên bề mặt đất xung quanh trụ, xới nhẹ cho phân lọt xuống đất hoặc phủ lên bằng một lớp đất mỏng sau đó ủ rơm hay cỏ khô, sau khi rải phân cần tưới nước. Liều lượng bón: 1,08 kg urê + 3,2 kg lân + 0,8 kg KCl.
Lần 1-Sau khi thu hoạch. 100% phân lân + phân chuồng hoai + 200 g urê
Lần 2-Cuối tháng 12: 200 g urê + 150 g KCl
Lần 3-Cuối tháng 2: 180 g urê + 150 g KCl
Lần 4-Cuối tháng 4: 100 g urê + 100 g KCl
Từ lần 5 đến lần 8: cứ mỗi tháng bón 1 lần, liều lượng như lần 4.
Ngoài ra có thể phun bổ sung thêm các loại phân vi lượng bằng cách phun thêm phân bón lá vào 10 ngày sau khi đậu trái và lúc phát triển nhanh.
* Tưới nước, ủ gốc, làm cỏ: Thanh long là cây chịu hạn nhưng nếu thiếu nước cây sẽ tăng trưởng chậm, khả năng ra hoa, đậu quả kém, năng suất thấp. Do đó phải đảm bảo tưới nước đầy đủ và ủ gốc vào mùa nắng; Cỏ dại cạnh tranh dinh dưỡng và là nơi trú ẩn của sâu bệnh, vì vậy phải làm cỏ thường xuyên bằng tay hoặc sử dụng thuốc diệt cỏ.
8. Chăm sóc:
--------------------------------------------------------------------------------
Trồng cây khoảng cách: 2,5 x 2,5 m, trồng sâu 5 – 10 cm, khi trồng đào hố dựng cột (cột có thể bằng xi măng hoặc gỗ), mỗi hố trồng từ 4 – 8 cây con xung quanh cột. Để cây thanh long mau lớn và đạt sản lượng cao phải che đậy cẩn thận để giữ gìn bộ rễ, không để tổn thương do ánh nắng mặt trời, úng nước, gió bão... Đồng thời cắt xén những cành cây không thể mọc mầm và ra quả, ngắt bớt hoa và theo dõi tình hình hoa nở và kết quả, mỗi cành nên để 3 – 4 quả. Cần chống nóng với những cây con mới trồng. Hàng năm trước khi vào mùa đông, khi bón phân phải thêm phân kali chống rét cho cây, đồng thời che đậy để giữ độ ẩm v.v...
Chuẩn bị đất:
Vùng đất cao: Đào hố kích thước 50 x 50 x 50 cm, trồng trụ lấp đất còn khoảng 20-30 cm rồi bón lót phân chuồng 15-20 kg/trụ rồi phủ lớp đất mặt lên.
Vùng đất thấp: Phải luống, độ cao phải cao hơn mực nước cao nhất trong năm từ 20-30 cm. Sau đó đào hố trồng trụ và bón lót.
Làm đất và bón phân:
Với đất bằng: Dùng 600 – 1.000 kg phân chuồng/mẫu và vôi bột thích ứng, cũng như các chất hữu cơ khác để cải tạo đất.
Đối với đất dốc: Độ dốc dưới 15° phải cuốc rộng, phía trong thấp hơn phía ngoài 10 – 15cm để giữ nước chống xói mòn.
Đối với đất đồi: Trên 15° trồng từng khóm khoảng cách giữa các khóm 2 x 2 m.
Đối với đất núi đá sỏi: Mỗi hố trồng phải có đường kính 1 m trở lên, độ sâu 30 cm, đá xung quanh phải đập vụn, bổ sung thêm 50% đất, 30% cát mịn, 20% phân hữu cơ và một ít vôi bột cho xuống hố.
Cần chú ý trừ cỏ bằng thuốc diệt cỏ, không phun vào cây và xung quanh bộ rễ. Khi cây được nửa năm thì rễ đã phủ toàn bộ mặt đất không sử dụng được thuốc diệt cỏ, nên cần che đậy để giảm cỏ mọc.
9. Phòng trừ sâu bệnh:
--------------------------------------------------------------------------------
Một số côn trùng và bệnh hại phổ biến trên thanh long như sau:
Kiến: cắn, đục khoét hom, cành non, tai lá, gây tổn thương vỏ trái làm mất giá trị thương phẩm. Dùng Basudin 10H rải quanh gốc cây, dùng Basudin 50ND Supracide phun xịt trên cành tại các vùng bị gây hại.
Rầy mềm: Có nhiều loại gây hại trên hoa và trái thanh long, chúng chích hút nhựa để lại vết chích nhỏ trên trái làm trái khi chin bị mất màu đỏ tự nhiên, mất giá trị xuất khẩu. Phun Lannate, Cyrux… nồng độ theo khuyến cáo trên nhãn thuốc.
Ruồi đục trái: Gồm nhiều loài nhưng phổ biến gây hại trên hoa và trái. Dùng thuốc bẫy ruồi như Vizubon, đặt 3-5 bẫy/1.000 trụ, đặt rải rác trong vườn thanh long.
Bệnh thối đầu cành: Do các loài nấm họ Alternaria làm ngọn chuyển màu vàng sau đó bị thối. Dùng Rovral 2 lần liên tiếp cách nhau 1 tuần.
Bệnh đốm nâu thân cành: Do nấm Gloeosporium agaves đốm tròn như mắt cua, nếu tập trung kéo dài thành vệt trên cành.
Bệnh nám cánh: Do nấm Macssonina agaves. Trên thân cành có một lớp màng mỏng màu xám tro, nhám.
Phòng trừ:
Vệ sinh đồng ruộng. Chống úng, chống hạn cho cây. Phun Rovral hoặc Anvil 5SC phối hợp với chất dính.
Ngoài ra còn một số bệnh sinh lý như rụng nụ do quá nhiều hoặc phân bón không đầy đủ, mất cân đối, hiên tượng nứt vỏ do thời tiết khô hạn sau đó mưa nhiều làm ruột quả phát triển mạnh hoặc teo trái lâu ngày. Phải kiểm soát không để bị khô hạn.
10. Thu hoạch:
--------------------------------------------------------------------------------
Trước khi thu hoạch 10 –15 ngày không được tưới nhiều nước, bón quá nhiều phân (nhất là phân đạm) và không phun các loại thuốc bảo vệ thực vật để bảo đảm an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng.
Khi trái thanh long chuyển màu hoàn toàn là thu hoạch được. Thời gian sinh trưởng của trái thanh long khác nhau về chế độ chăm sóc, về thời tiết vụ mùa, do đó việc thu hoạch cũng chênh lệch nhau về thời gian. Vì vậy, nên thu hoạch đúng lúc trái chín, trong khoảng 28 – 32 ngày sau khi nở hoa để trái có trọng lượng cao, chất lượng ngon nhất và bảo quản được lâu hơn.
Nên thu hoạch trái vào lúc sáng sớm khi chưa có nắng gắt hoặc lúc chiều mát. Nếu thu hoạch lúc nắng gay gắt chiếu trực tiếp thì nhiệt độ trong trái tăng, sẽ gây mất nước nhanh, ảnh hưởng đến chất lượng và thời gian bảo quản.
Dùng kéo bén (loại cắt tỉa cành cây) cắt lấy trái cho vào giỏ nhựa và để nơi bóng râm mát
Tránh làm xây xát, không để trái dính đất hoặc làm giập cuống, giập tai thanh long để tránh nhiễm nấm bệnh gây hỏng cuống khi bảo quản.
Hái xong, cần tiến hành loại bỏ những trái không đủ tiêu chuẩn ngay tại vườn, sau đó cho vào giỏ vận chuyển về nhà càng sớm càng tốt, không để lâu ngoài vườn.
Khi vận chuyển nên sử dụng giở chứa đựng và không được chất quá đầy giỏ. Cần dùng giấy báo cũ hoặc lá cây tươi loại mềm bao lót kỹ và bao phủ trên mặt trái để tránh va đập hay nắng nóng chiếu trực tiếp làm ảnh hưởng tới giá cả và ảnh hưởng tới tiêu chuẩn xuất khẩu của thanh long.