Trong thực tế, quá trình sinh sản của bò sữa bị tác động bởi nhiều nguyên nhân, nhất là đối với những bò cái sữa có tỉ lệ máu ngoại cao, nếu nuôi dưỡng quản lý không đúng, cho nhiều thức ăn tinh rất dễ dẫn đến rối loạn sinh sản (Nguyễn Xuân Trạch, 2007). Ngoài ra, có một số nguyên nhân phát sinh từ sau khi sinh bê, dẫn đến hiện tượng vô sinh ở bò sữa. Những trục trặc này đưa lại hậu quả trước tiên làm cho bò không động dục. Xin điểm qua một số hiện tượng dễ xảy ra ở bò sữa sau khi sinh.
1. Sát nhau và sót nhau
Bò cái nói chung (bò sữa nói riêng) sau khi đẻ bê khoảng 6-8 giờ thì nhau phải ra hết. Nếu đến 12 giờ (thậm chí 24 giờ) mà nhau thai vẫn chưa ra xong, được gọi là sát nhau. Nếu nhau ra không nguyên vẹn (không đủ), là sót nhau. Trong cả 2 trường hợp, nếu không can thiệp, nhau sẽ thối, gây nhiễm trùng tử cung, không thụ thai được ở lần phối giống tiếp theo. Theo tài liệu nhiều nước, tỉ lệ sót nhau trong đàn bò sữa không được vượt quá 8%.
Yếu tố gây sát nhau:
(1) Do bệnh nhiễm trùng đặc biệt (sẩy thai truyền nhiễm, xoắn khuẩn leptô, campylobacter, viêm mũi - phế quản truyền nhiễm). Những bệnh này có thể gây sẩy thai và cũng có thể gây sát nhau sau khi bò mẹ đẻ. Theo tài liệu của Dự án bò sữa Việt - Bỉ (2007) tỉ lệ bò sẩy thai khoảng 3-5%; (2) Những bệnh nhiễm trùng không đặc biệt do hàng loạt vi khuẩn và virus gây nên trong quá trình mang thai hoặc khi đẻ; (3) Đẻ song thai, đẻ khó (kể cả thời gian đẻ kéo dài), đẻ mổ; (4) Khẩu phần nuôi dưỡng thiếu thức ăn thô xanh, thiếu selen (Se), thiếu vitamin A hoặc vitamin E, quá dư thừa mức năng lượng ăn vào; (5) Thời gian cạn sữa kéo dài quá quy định.
Biện pháp khắc phục:
* Nếu dương tính với những bệnh nhiễm trùng đặc biệt (kiểm tra máu, nuôi cấy vi khuẩn), áp dụng những biện pháp khống chế được Thú y chỉ định.
* Giữ cho nơi đỡ đẻ bê và độn chuồng được sạch.
* Cho bò cái tơ phối giống với bò đực có mẹ đẻ dễ. Chú ý những bò đẻ con so. Nếu cần hỗ trợ sinh sản, phải tiến hành trong đều kiện sạch sẽ, cẩn thận.
* Về ăn uống, vận động: Đảm bảo lượng thức ăn thô xanh cho bò chửa đạt khoảng 10% khối lượng cơ thể (ví dụ bò nặng 250kg, toàn bộ lượng thức ăn xanh mỗi ngày cần 23-27kg). Nếu không đủ thức ăn xanh, phải bổ sung cỏ khô, rơm khô (1kg cỏ khô/rơm khô tương đương 3-4kg cỏ xanh). Hạn chế thức ăn tinh: dưới 20% khẩu phần (tính theo vật chất khô). Bổ sung Selen vào khẩu phần nếu ở những khu vực nuôi bò mà trong đất bị thiếu Se. Bổ sung vitamin A và E và Se theo yêu cầu. Cho bò chửa uống đủ nước sạch (40-60 lít/con/ngày). Trong thời gian bò mang thai, hàng ngày cho bò vận động nhẹ nhàng để tránh đẻ khó dẫn đến sát/sót nhau.
* Tránh cho bò cái có thời gian cạn sữa kéo dài quá quy định (thường chỉ nên 50-70 ngày). Giữ cho bò cạn sữa có điểm thể trạng bình thường (khoảng 3-3,5 điểm).
Can thiệp: Nên can thiệp sớm, nếu để quá 24 giờ, hiệu quả sẽ kém.
+ Hạn chế bóc nhau vì bóc nhau dễ dẫn đến tổn thương nội mạc tử cung.
+ Gây kích thích co bóp tử cung để đẩy nhau ra ngoài. Vi dụ: (1) Tiêm dưới da oxytocin 30-40UI (6-8ml) hoặc pituitrin, stilbestro, sinestrol: (2) Tiêm các dẫn xuất Prostaglandin (Lutalyse, Estrumate, Dinoprost: ≈25mg/bò) và tiêm kháng sinh để chống nhiễm trùng (Penicillin: 300.000UI + Streptomycin: 0,3mg; hoặc Ampicillin: 500mg). (3) Thụt dung dịch Lugol (30-50ml) vào trong tử cung; (4) Nếu tử cung mất trương lực: tiêm estrogen (tiêm bắp/dưới da, 5-10ml), sau 2-3 giờ, tiêm oxytocin (tiêm bắp/dưới da, 3-5ml) hoặc pituitrin
2. Viêm tử cung
Tỉ lệ bò sữa viêm tử cung có thể đến 20- 25% (VCN, 2007). Dịch thải từ tử cung kéo dài quá 2 tuần hoặc có mùi hôi hám (cổ tử cung luôn mở). Có 3 thể viêm tử cung: viêm nội mạc, viêm cơ và viêm tương mạc. Viêm cơ tử cung là do kế phát của viêm nội mạc và viêm tương mạc là kế phát của viêm cơ tử cung. Khi đã viêm đến tương mạc thì rất khó chữa khỏi, dễ dẫn đến vô sinh vĩnh viễn.
Yêu tố gây viêm nội mạc tử cung:
(1) Bò sát nhau gây thối hoặc nhiễm trùng đường sinh dục rồi lan vào tử cung; (2) Tổn thương đường sinh sản vì đẻ khó hoặc lôi kéo thai bê quá mạnh khi đỡ đẻ (đường sinh dục có thể bị tổn thương khi dẫn tinh hoặc thụt rửa tử cung); (3) Trong khẩu phần ăn thiếu Selen và vitamin E.
Biện pháp khắc phục:
Viêm nội mạc tử cung Cata cấp tính có mủ: Thụt rửa bằng dung dịch sát trùng (rivanol 0,1%, axit boric 3%, thuốc tím 0,1%, lugol 0,1%). Sau khi thụt, bơm kháng sinh tố (penicillin 1 triệu UI + streptomycin 1g + nước cất 50ml).
Viêm nội mạc tử cung màng giả: Không thụt rửa tử cung. Têm kích thích co bóp cơ tử cung để thải dịch viêm ra (oxytocin, pituitrin, ergotamin, PGF2a hoặc các dẫn xuất) rồi dùng kháng sinh tố (mỡ, viên, hỗn hợp) đặt trực tiếp hoặc xoa lên niêm mạc tử cung. Vừa đều trị cục bộ (kháng sinh tố) vừa trợ lực (glucose, cafein, B1).
Giữ vệ sinh chỗ nằm của bò mẹ, không cho bò lành tiếp xúc với bò ốm. Bổ sung Selen và vitamin E vào khẩu phần
3. Viêm vú
Bệnh phát sinh ở nhiều loại gia súc, với bò sữa thường xảy ra sau khi đẻ. Khoảng 95% viêm nhiễm là do các loại vi khuẩn (lây truyền qua tay, máy vắt sữa) S.agalactiae, S. aureus, S.dysgalactiae, S. uberis, và Mycoplasma. 5% trường hợp còn lại là do những vi khuẩn khác (http://edis.ifas.uft.edu/pdffiles).
Bệnh còn do vi khuẩn trong môi trường gây nên, như E.coli (có trong phân, nước thải và chất độn chuồng bẩn), S. uberis (có ở khắp nơi, trong dạ cỏ, phân, cả ở bầu vú).
S.agalactiae tồn tại trong bầu vú khá lâu, mẫn cảm với penicillin. S. aureus có trong bầu vú, trên da những bò viêm vú, mẫn cảm vừa phải với kháng sinh tố (bò già bị viêm vú thường không đáp ứng với điều trị). S.dysgalactiae mẫn cảm vừa phải với kháng sinh tố. Mycoplasma không chịu tác động của nhiều loại kháng sinh tố. E.coli không mẫn cảm với kháng sinh tố. Mỗi loại vi khuẩn có đặc thù riêng nên việc đều trị viêm vú rất phức tạp.
Bệnh gây thiệt hại về kinh tế vì sữa biến chất, phải loại bỏ.
Yếu tố gây viêm vú.
Bệnh do nhiều nguyên nhân, như nhiễm khuẩn trong khi vắt sữa, kế phát của sát nhau, viêm tử cung, sốt sữa, vắt sữa không kiệt, bại liệt sau đẻ, ngộ độc thức ăn.
Chẩn đoán:
(1) Kiểm tra số tế bào thể (phương pháp CMT - California Mastitis Test): vắt sữa của từng núm vú vào một khay có 4 giếng, rót dung dịch CMT vào và đánh giá theo bảng sau:
Cho điểm theo CMT Số tế bào/ml sữa Đánh giá
N (âm tính) 0-200.000 Bầu vú khoẻ mạnh
T (có vệt) 20.000-400.000 Viêm vú cận lâm sàng
Độ 1 400.000-1.200.000 Viêm vú cận lâm sàng
Độ 2 1.200.000-5.000.000 Viêm vú nặng
Độ 3 Trên 5.000.000 Viêm vú nặng
(2) Kiểm tra bằng thiết bị Draminski đo độ dẫn điện của sữa: vắt sữa của từng núm vú vào thiết bị và đọc kết quả độ dẫn điện.
* Số đọc dưới 250 đơn vị: nhiễm bệnh nghiêm trọng, đang tiến triển nhanh từ trạng thái cận lâm sàng chuyển sang lâm sàng. Cần điều trị gấp
* Số đọc trên 300 đơn vị: Mẫu sữa có chất lượng tốt
* Số đọc giữa 250 và 300 đơn vị: báo trước có sự viêm nhiễm. Cần đều trị
Biện pháp khắc phục:
(1) Phòng bệnh:
* Tuân thủ quy trình vắt sữa (bằng tay, bằng máy). Sau mỗi lần vắt sữa, cần nhúng núm vú vào các dung dịch phòng viêm vú (nhiều dung dịch rất hiệu quả, như Iodin (0,1 ; 0,5 và 1.0%), hypochlorite 4%, Na hydroxide < 0,05%).
* Đề phòng viêm vú ngay sau lần vắt sữa cuối cùng trước khi bắt đầu cạn sữa: lau núm vú bằng bông cồn, bơm penicillin và dihydrostreptomycin (nên dùng loại tan chậm) (hoặc cloxacillin) liều cao vào trong vú (không sợ dư cặn thuốc vì sau đó không vắt sữa nữa), rồi lau sạch núm vú và nhúng vào dung dịch nhúng núm vú.
(2) Điều trị: tùy theo thể viêm mà can thiệp
* Thể fibrin: Giảm các loại thức ăn tinh, nhiều nước, nhiều nhựa. Tăng số lần vắt sữa trong ngày. Xoa bóp cẩn thận bầu vú. Bơm kháng sinh vào lá vú viêm. Tiêm bắp kháng sinh. Trợ lực cho con vật.
* Thể có mủ: Cần loại trừ vi khuẩn ra khỏi tuyến vú. Tăng số lần vắt sữa: ban ngày cứ 2-3 giờ vắt 1 lần, ban đêm cứ 6 giờ vắt 1 lần. Bơm vào tuyến vú (200-250ml): rivanol 1/2000, thuốc tím 1/300-1/500 (vắt kiệt sữa trước khi bơm).
* Thể có máu: Không thả chăn để tránh chảy máu. Hạn chế cho uống nước, giảm các loại thức ăn đã nêu trên. Nếu trong bể sữa có máu cục, bơm vào lá vú 200ml NaCl 1% để làm tan máu, hoặc bơm 80-100ml novocain 0,5% vào lá vú. Nếu lá vú có hiện tượng nhiễm khuẩn, bơm các loại kháng sinh vào lá vú, cho con vật uống tẩy nhẹ. Tăng sức đề kháng, trợ sức cho con vật.
* Loại thải: Nếu chữa lâu mà không khỏi, cần loại thải để tránh lây lan và giảm tốn kém do điều trị.
4. Thể vàng tồn lưu
Vào cuối chu kỳ động dục thể vàng chẳng những không tiêu biến mà còn tồn tại qua nhiều chu kỳ tiếp theo, do đó không động dục trong thời gian dài.
Yếu tố gây thể vàng tồn lưu:
Có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu do có những vật thể tồn tại trong tử cung (phôi/thai chết, thai chết ngâm, thai gỗ, u nhầy, tử cung có mủ...).
Chẩn đoán:
Kiểm tra qua trực tràng nhận thấy thể vàng chức năng tồn tại, nhưng không có chửa (10 và 20 ngày sau kiểm tra lại vẫn nguyên hiện trạng); hoặc sờ được thể ngoại lai trong tử cung (vừa nêu trên).
Biện pháp khắc phục:
- Tiêm PGF2a: 20-30mg/bò; hoặc dẫn xuất của prostsglandin (Estrumate, Lutalyse, Hanprost): 500mg/bò.
- Có thể bóc thể vàng tồn lưu (qua trực tràng), nhưng dễ gây chảy máu buồng trứng. Vì vậy cần hết sức thận trọng.
5. U nang nang trứng
Là 1 hoặc nhiều nang trứng không rụng do đó lưu lại trong một bên buồng trứng (hoặc cả hai) từ 10 ngày trở lên (có đường kính >2,5cm). Kết quả là làm cho con vật động dục thường Xuyên, kéo dài và mãnh liệt (cường dục), có sự thay đổi cân bằng hormon, thay đổi trương lực cơ dạ con, không rụng trứng được. Đôi khi kèm theo viêm nội mạc tử cung.
Yếu tố gây u nang nang trứng:
* Do mức canxi ăn vào quá nhiều hoặc tỉ lệ Ca: P quá lớn (ví dụ 2: 1)
* Do lượng estrogen ăn vào quá nhiều (từ thức ăn hoặc từ độc tố nấm mốc)
* Do di truyền
* Do stress hoặc sức khỏe suy giảm mạnh lúc đẻ hoặc ngay sau khi đẻ
Biện pháp khắc phục:
* Nuôi dưỡng: phân tích thành phần hóa học của cỏ, bảo đảm tỉ lệ Ca: P không quá 2: 1 (lượng Ca ăn vào được tính cho toàn bộ cỏ, hạt cốc, khoáng bổ sung)
* Không tiêm các dẫn xuất estrogen (trừ yêu cầu chữa bệnh của Thú y). Phân tích những thức ăn nghi ngờ có chứa Zearalenone hoặc độc tố nấm mốc. Hạn chế cho bò sinh sản ăn thức ăn có mycotoxin và những thức ăn có estrogen thảo mộc.
* Điều trị: có thề áp dụng một trong các cách sau: (a) Tiêm hCG:5.000 - 10.000 UI; (b) Tiêm GnRH: 100 - 200mg; (c) Tiêm PGF2a (Dinoprost: 25mg; hoặc Cloprostenol: 500mg); (d) Tiêm Progesteron: 1,9g: (e) Tiêm 50 ml Glucose (40-50%) vào trong tử cung (kinh nghiệm của Nhật); (f) Bóp vỡ u nang (qua trực tràng): nguy hiểm, cần thận trọng.
* Dùng phương pháp Ovsynch (sơ đồ): Sau lần tiêm GnRH thứ hai 16-20 giờ thì dẫn tinh. Hiệu quả có thể đạt trên 90%.
* Kết hợp chữa bệnh có liên quan (viêm nội mạc, sát nhau, viêm buồng trứng).
6. Thiểu năng và teo buồng trứng
Có thể gặp ở nhiều loài gia súc (sinh sản nhiều hoặc già nua)
Triệu chứng: không động dục kéo dài, hoặc động dục yếu và các giai đoạn không rõ ràng. Buồng trứng bé hơn bình thường, không có thể vàng và cũng không có nang trứng phát triển. Sau mỗi đợt 10 ngày sờ khám lại, trạng thái buồng trứng không thay đổi.
Yếu tố gây thiểu năng và teo buồng trứng:
Do nhiều yếu tố: dinh dưỡng kém, tỉ lệ FSH và LH do tuyến yên tiết ra không cân đối
Biện pháp khắc phục:
* Tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng, bổ sung vào khẩu phần: protein, khoáng, vi lượng, vitamin (A, E, D, B), thả chăn ngoài bãi cỏ
* Qua trực tràng, xoa nhẹ mỗi buồng trứng (cách vài ngày xoa 1 lần, mỗi lần 3-5 phút, tiến hành trong 4-5 lần)
* Điều trị: có thể sử dụng một trong các cách: (1) Tiêm (bắp hoặc dưới da) kích tố màng đệm nhau thai ngựa (huyết thanh ngựa chửa, PMSG): 750 - 1500 UI/bò (nếu tính theo đơn vị chuột thì 10-12 đơn vị chuột/1 kg khối lượng cơ thể, nhưng khống chế mức tiêm tối đa cho 1 bò ≈ 3000 đơn vị chuột). (2) Tiêm GnRH: 100mg/bò.