Do là loài quý hiếm có chất lượng thịt cá thơm ngon và có giá bán cao trên thị trường nên cá chầy đất thường xuyên bị những người dân sống ven các con sông, suối khai thác triệt để bằng đủ mọi cách, kể cả việc dùng những công cụ, phương tiện đánh bắt có tính hủy diệt nguồn lợi và không được phép sử dụng như xung điện, thuốc nổ, chất độc, lưỡi câu nhỏ hoặc lưới có cỡ mắt lưới nhỏ hơn cỡ cho phép... Cùng với việc phá rừng, ngăn sông, đắp đập xây dựng nhiều công trình thủy điện, thủy lợi lớn nhỏ ở các tỉnh thượng du, các hoạt động này đã làm cho nguồn lợi cá chầy đất ngày càng suy giảm, khu vực phân bố của chúng bị thu hẹp dần, các bãi đẻ gần như không còn tìm thấy như trước.
Hiện nay, nhiều người dân ở một số tỉnh miền núi phía Bắc như Yên Bái, Tuyên Quang, Hà Giang... đã nuôi cá chầy đất trong lồng trên sông, hồ chứa hoặc trong ao nước chảy bằng nguồn giống đánh được trong tự nhiên để bán ra thị trường. Tuy nhiên, do bị động về con giống nên việc mở rộng nuôi loài cá này gặp nhiều khó khăn. Sau đây xin chia sẻ kinh nghiệm nuôi vỗ thành thục và kích thích sinh sản nhân tạo cá chầy đất
1. Về nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ
Cá bố mẹ được nuôi trong ao diện tích 300 m2, mức nước sâu 1,2 - 1,5 m và trong bể xi-măng diện tích 50m2 với mật độ 2- 3 m2/con. Cho cá ăn thức ăn công nghiệp có hàm lượng protein 40%, lipit 12%.
Chia quá trình nuôi vỗ thành 2 giai đoạn: 1) Giai đoạn nuôi vỗ tích cực từ tháng 1-3, cho ăn 5 - 7% khối lượng cá/ngày; 2) Giai đoạn nuôi vỗ thành thục từ tháng 4-5, cho ăn 1,5-2% khối lượng cá/ngày, có bổ sung đỗ tương nấu chín và thóc mầm 5% khối lượng cá/ngày. Cho cá ăn 2 lần/ngày vào 8 giờ sáng và 4 giờ chiều. Dùng máy bơm công suất 1,5 kW để tạo dòng chảy trong ao. Thời gian bơm: Tháng thứ 1 bơm 8 giờ/ngày, tháng thứ 2 bơm 16 giờ/ngày, tháng thứ 3 và 4 bơm cả ngày đêm (24giờ).
Định kỳ hàng tháng thay 30% lượng nước trong ao, hàng tuần thay 50% lượng nước trong bể để giữ môi trường nuôi không bị ô nhiễm. Các yếu tố môi trường nuôi như sau: Nhiệt độ thấp nhất 210C, cao nhất 27,50C vào tháng 5 là lúc cá thành thục sinh dục; hàm lượng ôxy hòa tan 5,3 - 5,5 mg/lít; pH 8,1 - 8,3.
Cá thành thục cả trong ao và bể xi-măng nhưng tỷ lệ thành thục trong ao cao hơn, gần 80%, có thể do môi trường sinh thái trong ao tốt hơn.
2. Về kích thích sinh sản nhân tạo
Khi đến mùa cá sinh sản (từ tháng 3 đến tháng 6), lựa chọn cá bố mẹ khỏe mạnh, thành thục sinh dục tốt để cho đẻ. Dùng que thăm trứng xác định mức độ thành thục của cá cái, tách riêng những cá có trứng tròn đều và rời nhau đưa vào bể đẻ có nước chảy kết hợp với sục khí, hàm lượng ôxy hòa tan > 5 mg/lít.
Hỗn hợp kích dục tố được sử dụng với liều lượng 35 μg LRHa + 25 mg DOM/kg cá cái để kích thích cá đẻ cho kết quả tốt nhất. Với cá cái, tiêm 2 liều (liều khởi động và liều quyết định) cách nhau 5 - 7 giờ, lượng kích dục tố của liều khởi động bằng 1/4 tổng liều. Với cá đực, chỉ tiêm 1 lần với liều lượng bằng 1/3 liều dùng cho cá cái và tiêm cùng với lần tiêm liều quyết định cho cá cái. Trong điều kiện nhiệt độ từ 26 - 280C, tỷ lệ cá đẻ đạt gần 85%.
Dùng phương pháp thụ tinh khô cho trứng cá chầy đất đạt hiệu quả cao nhất, tỷ lệ thụ tinh tới gần 90%, tỷ lệ nở hơn 80% trong điều kiện nhiệt độ 23 - 270C.
Đưa trứng đã thụ tinh vào ấp trong khay ấp trứng cá rô phi có kích thước 0,37 x 0,23 x 0,05 m, hai bên thành dài của khay có 6 - 8 lỗ thoát nước, lưu lượng nước chảy qua khay là 0,5 lít/phút, tỷ lệ nở đạt tới 90%. Ấp trứng trong bình Vây cho tỷ lệ nở thấp hơn một chút nhưng lại phù hợp hơn khi sản xuất giống đại trà.
Bình Minh