1. Về tính mới của giải pháp:Trước đây, người lao động phải dùng tay xé nhỏ bông, tốn nhiều thời gian, chi phí lớn. Mặt khác, bông ủ với nước vôi và mùn cưa, người làm nấm phải ngồi trực tiếp bên đống nguyên liệu có nhiệt độ từ 80-90 độ C, mùi khó chịu, tay luôn bị bỏng rát, ảnh hưởng tới sức khỏe. Máy xé bông được cải tiến tư máy tuốt lúa đạp chân, hoặc dùng mô tô điện đơn giản, dễ chế tạo, dễ vận hành, mang lại hiệu quả xé bông rất cao. Ban đầu, khi cho bông vào như tuốt lúa, bông không được xé nhỏ ngay mà phải xé đi, xé lại nhiều lần do răng tuốt lúa làm bằng dây thép uốn tròn, không sắc. Vì vậy, tác giả đã thay quả lô gỗ bằng quả lô sắt, cải tiến bánh răng dầy hơn và hàn thêm một tấm tôn dưới bụng máy không để nguyên liệu rơi ra ngoài. Bông được xé nhỏ, độ ẩm được đảm bảo, phối trộn giữa bông và mùn cưa và các mùn cưa được đều hơn. Độ xen gữa các nguyên liệu được kỹ hơn.
2. Tính hiệu quả:
- Hiệu quả kinh tế: Trước khi có máy, muốn xé tơi 4 tấn nguyên liệu phải sử dụng 7- 8 người làm thủ công và 2-3 người dồn nguyên liệu vào túi, thời gian mất 2 ngày, chi phí khoảng 2,5 triệu đồng. Tuy nhiên, khi sử dụng chiếc máy, chỉ cần sử dụng 1 nhân công, chi phí gần 200 nghìn đồng. Đặc biệt, với nguyên lý hoạt động này, bông được xé tơi hơn, giảm độ ẩm, dễ đóng, bảo đảm công suất lò và chất lượng bịch nấm. Đảm bảo tỷ lệ cấy giống sống được cao hơn so với xe bông bằng tay do không tơi nhỏ được còn lẫn nhiều cục bông có tích nước, độ ẩm cao. Đảm bảo được thời gian sản xuất bịch nấm đúng thời vụ.
- Hiệu quả kỹ thuật: Nguyên liệu làm toàn bằng sắt. Máy gồm các bộ phận chính như quả lô, chiều dài 65-70 cm, răng xé bông dài 5-7cm, răng tĩnh nằm 1/2 vòng của máy; răng động nằm trên quả lô; bụng máy. Toàn bộ máy nằm trên giá đỡ 4 chân, sử dụng động cơ điện 1 pha hoặc 3 pha. Về nguyên lý hoạt động: Nguyên liệu được thả vào phía trước máy, qua hai lớp răng tĩnh và răng động đan với nhau làm xé tơi bông.
- Hiệu quả xã hội:Sản phẩm tận dụng nguồn nguyên liệu sắt, thiết kế và vận hành không ảnh hưởng đến môi trường. Không dùng chất đốt hoặc nguyên liệu xăng dầu. Tiết kiệm lao động, giải phóng sức lao động cho con người. Bảo vệ sức khoẻ người lao động, không phải ngồi trực tiếp ngồi trên đống ủ. Năng suất lao động tăng cao, nghề trồng nấm được mở rộng và phát triển, tăng thu nhập, giúp người nông dân làm giàu trên chính mảnh đất quê hương.
3. Khả năng áp dụng: Giá thành rẻ, dễ làm các nguyên liệu đơn giản. Sản phẩm không khó, chỉ cần xem qua mẫu là có thể làm được. Sản phẩm được áp dụng có hiệu quả, nhiều hộ đã đến xin mẫu và thuê người làm máy. Sáng kiến đã được tác giả chuyển giao cho các hộ trồng nấm trên địa bàn xã và một số hộ ở huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.
Văn Hùng