Mạnh dạn chuyển đổi từ mô hình nuôi cá lồng kém hiệu quả sang mô hình nuôi ghép cá lăng đuôi đỏ là chính, ông Nguyễn Văn Pha ở ấp Phước Hữu, xã Long Phước, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã trở thành nông dân điển hình của địa phương nuôi thành công loài cá này trong ao đất, thu lãi mỗi năm trên trăm triệu đồng.
Sở hữu ao nuôi có diện tích mặt nước 5.000 m2, với nhiều năm nuôi cá trong ao đất, nhờ đó ông Pha có kinh nghiệm về nuôi cá nước ngọt. Hơn 10 năm nuôi ghép các đối tượng cá nước ngọt như rô phi, chim, mè, trôi, trắm, chép với nhiều vất vả nhưng hiệu quả mang lại chẳng đáng là bao. Nhờ được tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật và qua sách báo, ông biết tới loài cá lăng đuôi đỏ. Đây là loài có giá trị kinh tế, có thể nuôi ghép với các loài cá khác trong ao đất, đặc biệt là thức ăn cho cá có thể tận dụng nguồn phụ phế phẩm lò mổ sẵn có tại địa phương. Vì vậy, ông đã mạnh dạn chuyển đổi sang mô hình nuôi cá lăng đuôi đỏ là chính ghép với cá chép, cá trắm cỏ.
Theo ông Pha, lúc đầu, ông chỉ thả nuôi thăm dò theo tỷ lệ 50% cá lăng và 50% là các đối tượng cá truyền thống để lấy kinh nghiệm. Khi nắm vững kỹ thuật ông tự tin chuyển sang quy trình nuôi cá lăng đuôi đỏ là chính thả ghép với cá chép, cá trắm cỏ. Quy trình nuôi ghép cá lăng đuôi đỏ là chính, mật độ thả theo tỷ lệ 8:1:1. (8 con cá lăng, 1 con cá chép, 1 con trắm cho 10 m2 diện tích mặt nước). Để tránh cạnh tranh thức ăn nên thả giống cá lăng trước một thời gian; sau đó mới thả cá chép, cá trắm. Cá giống nên chọn mua ở những cơ sở sản xuất có uy tín. Cá khỏe mạnh, không bị gãy đuôi, dị hình, cỡ đồng đều, khối lượng trung bình 10g/ con. Thức ăn của cá là phụ phế phẩm lò mổ. Thời gian đầu thức ăn được xay nhỏ cho vào sàng ăn.
Ngày cho cá ăn 2 lần, vào 6 giờ sáng và trước 16 giờ chiều. Khẩu phần ăn chiếm khoảng 7 - 8% trọng lượng cá nuôi. Sau 2 tháng nuôi, thức ăn chỉ cần cắt khúc vừa miệng cá là được. Khẩu phần ăn giai đoạn này trở về sau chiếm khoảng 3% trọng lượng cá nuôi. Định kỳ, bổ sung thêm Vitamin C, các khoáng vi lượng để tăng sức đề kháng cho cá. Khi thời tiết thay đổi cần kiểm tra sự bắt mồi của cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.
Nhờ quá trình nuôi tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật, kiểm soát được môi trường dịch bệnh nên sau 10 tháng nuôi, cá lăng đạt trọng lượng 800g - 1kg/con; cá chép, cá trắm cỏ đạt trọng lượng 2 - 3kg/con,cá biệt có con đạt trên 4 kg. Các đối tượng nuôi có giá trị dinh dưỡng cao, thịt mềm và thơm ngon khi chế biến món ăn nên dễ tiêu thụ trên thị trường. Hiện tại giá cá lăng bán buôn tại ao khoảng 75.000 đồng/kg (đối với cá đạt trọng lượng trên 1kg). Cá chép, cá trắm cỏ là 50.000 đồng/kg (đối với cá đạt trọng lượng trên 1,5 kg). Mỗi năm, ông Pha thu hoạch khoảng 2 tấn cá lăng và 1 tấn cá chép, cá trắm. Sau khi trừ chi phí, ông thu lãi khoảng 100 triệu đồng/năm mà không phải vất vả như trước đây.
Được biết họ cá lăng có hơn 245 loại khác nhau sinh sống tại khắp các vùng trên thế giới. Tại Việt Nam, phổ biến là các loại cá lăng hồng, cá lăng vàng, cá lăng đuôi đỏ, cá lăng hoa... Trong số đó, lăng đuôi đỏ được cho là loài có cân nặng trưởng thành lớn nhất. Đặc điểm phân biệt đơn giản của loại cá này là chúng sở hữu đuôi cá màu đỏ, vây lớn. Hiện nay, mô hình nuôi ghép cá lăng đuôi đỏ là chính của gia đình ông Pha là mô hình sản xuất mới trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, để nhân rộng mô hình này, góp phần đa dạng hóa đối tượng nuôi trồng thủy sản, người dân cần tham khảo, nghiên cứu về kỹ thuật, điều kiện tự nhiên cũng như nguồn thức ăn để tránh rủi ro trong quá trình sản.
Bắc Hà